Thứ Hai, 6 tháng 11, 2023

                  HÀ NỘI VÀO ĐÔNG                                                               


                                                                                  Thơ                                                                                 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGHIÊM THẢN

 

 

 

 

 

     HÀ NỘI  

         vào đông

                        thơ

 

 

 

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN 2024

 


LỜI GIỚI THIỆU

 

     Khi vũ trụ vần xoay, mùa nối mùa để cuộc đời thêm nhiều hương vị. Nhà thơ Nghiêm Thản lại đem đến “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” với bao nỗi niềm muốn được chia sẻ. Là người con Hà Nội gắn bó với nơi sinh thành, nhưng bước chân lãng du của anh đặt lên khắp mọi miền Tổ quốc, và ở đó tình và cảnh đã thổi vào hồn anh sự vang ngân tạo ra những câu thơ đi vào lòng người:

Khi vũ trụ chuyển vần

Mưa rây rây rắc bột

Cửa nàng Xuân mở chốt

Nhựa ứ tràn sinh sôi

                             (Chồi Xuân)

     Mùa Xuân khởi điểm cho bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông là mùa của sinh sôi, nảy nở vì vậy chỉ cần nghe tiếng “nhón gót hài” của nàng Xuân là ta đã cảm nhận được đất trời đang chuyển động:

Nghe đâu đây tiếng gì khe khẽ

Hay tiếng nàng Xuân nhón gót hài

                                 (Xuân Vể)

     Với nhà thơ Nghiêm Thản thiên nhiên con người hòa quyện với nhau để tạo nên cái đẹp vĩnh hằng: Tháng Giêng nghiêng sắc hoa tươi/ Đâu đây khúc khích tiếng cười giòn tan (Tháng Giêng).

     Nếu “sắc hoa tươi” đem lại bức tranh tuyệt đẹp thì “tiếng cười giòn tan” lại đem đến khúc nhạc tươi vui. Chỉ cần hai câu thơ cũng đã cho người đọc một niềm lạc quan phơi phới. Mùa Hè trong thơ anh cũng rất sinh động. Nó chứa đựng những nét riêng của Hà Nội:

Chùm sấu xanh non giấu mình qua kẽ lá

Có vui lòng khi mát bát canh chua

                                 (Viết ngày 30.4)

Khác với mùa Hẻ. Màu Thu được miêu tả với nhiều sự vật:

Khi hoa phượng đã thôi tắp lửa

Bàng bung dù lác đác lá vàng rơi

Hoa cúc trong vườn đang còn e ấp

Gió heo về làm rối tóc em tôi

                                           (Giao mùa)

     Hoặc:

Chợ làng vương hương cốm

Chuối trứng quốc chín vàng

Em gái Thu má đỏ

Bưởi rám vàng chơi đu.

                                (Chiều cuối Thu)

     Những câu thơ thiên về miêu tả nhưng khiến người đọc nao nao như đang bước vào mùa Thu cụ thể. Thu đi Đông tới theo quy luật của tạo hóa, nhưng với Nghiêm Thản đó là sự chuyển mùa rất đáng yêu và lòng anh xốn xang để hát lên thành những câu thơ đẹp và giàu cảm xúc:

Mái tóc em thôi vương mùi hao sữa

Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

Đèn cao áp như mờ hơn một chút

Thương cây bàng một nình đứng đơn côi.

                                       (Hà Nội vào Đông)

     Anh và em chúng mình đang hiện hữu trong công viên, ánh đèn kia có “mờ hơn một chút” càng trở nên thi vị để rồi “Thương cây bàng một mình đứng đơn côi”. Thương người con gái cô đơn đang chờ người yêu nơi biển đảo xa xôi. Đó chính là tính nhân văn cao cả hay tấm lòng của thi nhân đang rộng mở. Khi rời xa thành phố nhà thơ Nghiêm Thản như được đắm chìm trên mợi miền Tổ quốc:

Chùa Thiên Mụ vẫn rêu phong tháp cổ

Bến Văn Lâu giăng lớp lớp sương mù

Ai đã đề bài thơ vào chiếc nón

Thả xuôi dòng tìm người cũ trong mơ.

                                      (Huế trong mưa)

     Huế đẹp và thơ mộng dẻ lại nhiều cảm xúc cho tao nhân, mặc khách. Tác giả “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” cũng viết được những câu thơ vang vọng như nhà thơ Hàn Mặc Tử:

Gió nhẹ lay, sông nước nhẹ lay

Lay cả vầng trăng cả mây bay

Thuyền ơi! Có nhớ về bến cũ

Cũng một đêm trăng tình đắm say

                              (Cũng một đêm trăng)

          Nơi núi rừng với vẻ đẹp nguyên sơ cũng để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả:

Nghe em gọi bạn tình bằng khèn lá

Nhịp con tim vang vọng núi rừng thiêng

Bản sắc riêng, Ôi! Mọi miền Tổ quốc

Có cuộc tình tím hơn cả đồi sim

                                   (Lên vùng cao)

     Khác với quan niệm thông thường: Ca ngợi sự thủy chung của người phụ nữ qua truyền thuyết chờ chồng hóa đá “Vọng phu” bản thân nhà thơ lại muốn hóa đá để chờ người yêu:

Nếu mai này em có về phố núi

Cuối dốc xưa anh hóa đá đợi chờ

Và cho dù nhành lan kia đổi sắc

Màu tím trong anh mãi chẳng phai mờ

                                       (Chiều phố núi)

     Dù đi đâu về đâu, với quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nơi có Tổ tiên ông bà ông vải, có anh em họ hàng, có bạn bè gần xa, có những người thân không bao giờ quên được, và biết bao những kỷ niệm vui buồn. Với làng Bún Phú Đô nhà thơ Nghiêm Thản luôn dành những lời ngợi ca từ sâu thẳm trái tim mình:

Chùa Đồng Bàn, chùa Thượng, Linh Sơn Tự

Đây đất thiêng, quán thờ Đức Hai Bà

Đây làng nghề có từ xa xưa lắm

Sợi bún oằn mình chìm nổi với ông cha.

                                          (Làng Bún Phú Đô)

     Viết về những người phụ nữ Phú Đô tài hoa đảm đang đã từng là vợ vua (đời Lý), những người phụ nữ đang sống và làm việc nơi quê hương mình nhà thơ luôn thể hiện bằng những lời thơ cảm phục:

      Ca trù ngọt tới cung đình

Chầu văn, chèo cổ nặng tình nước non

      Một lòng cùng với chồng con

Hai vai gánh nặng vẹt mòn gót chân.

                                 (Gái Phú Đô)

     Chỉ mấy câu lục bát mà Nghiêm Thản đã khắc họa rõ nét, sinh động hình ảnh người phụ nữ Phú Đô quả là một tài thơ. Trong “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” ta bắt gặp chủ đề thơ tình yêu lứa đôi khá đậm đặc. Phải chăng đây là tiếng vọng từ tâm hồn của nhà thơ đa tình, đa cảm? Nhìn cảnh vật mà thấy lòng rạo rực và tình yêu lên tiếng:

Đôi chim câu mớm hơi đấu mỏ

Ghế đá công viên Hai bạn trẻ tự tình

Em đẹp như câu thơ bỏ ngỏ

Tình yêu thơm như trái chín đầu mùa

                                 (Thơ tặng em)

     Từ đôi chim câu đang “mớm hơi” đến đôi bạn trẻ đang tự tình trên “ghế đá công viên” rồi lời khen về em rất đẹp qua cách so sánh như câu thơ chưa viết xong để đi đến cái kết rất tự nhiên “Tình yêu thơm như trái chín đầu mùa”. Thật gần với cách diễn đạt của nhà thơ tố Hữu “Em đẹp, em thơm như quả quả táo đầu cành”.

     Tình yêu lứa đôi là thi hứng vô tận làm tốn nhiều giấy mực của văn nhân từ xưa tới nay. Mỗi thi nhân có một cách hiện khác nhau. Nghiêm Thản tỏ lòng mình rất cụ thể nhưng lại hết sức bay bổng:

Anh thích em thổi cơm rơm

Lửa hồng vừa tắt đã thơm má đào

                                 (Xin đừng)

     Thật khiếm khuyết nếu ta không nhắc đến hình ảnh nhưng người vợ liệt sỹ xuất hiện trong tập “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” vì ở họ nó chứa đựng sự hy sinh thầm lặng và cao cả:

Lấy nhau chưa kịp bén hơi chồng

Mà em đã phải chịu phong không

Em biết anh còn nhiều vất vả

Mái bếp bao giờ ấm lửa hồng…

Ngày mai cha tới anh đã khuất

Giặc giết anh rồi bung mang thai

                             (Thầm Lặng)

     Có người vợ liệt sỹ nhìn chiếc lá rụng, một mình ngồi gậm nhấm “nỗi cô đơn”: Lá vàng rụng lặng yên về cội/ Em một mình đếm từng nỗi cô  (Sang Xuân). “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” phần lớn là thể thơ tự do, một ít bài lục bát, thơ ngũ ngôn, anh dành cho thơ Đường khá khiêm tốn nhưng lại là những bài rất chuẩn, chỉ cần nhìn vào các cặp Thực (câu 3,4) Luận (Câu 5,6) bài “Mênh mang Yên Tử” ta thấy rõ điều đó:

Núi biếc trập trùng, chim vượn hót

Rừng xanh thăm thẳm, quế lan bay

Vua Trần thanh tịnh rời cung điện

Phật tử tĩnh tâm đến chốn này.

                    (Mênh mang Yên Tử)

     Tiếp theo tập “TRỞ VỀ” là tập thơ “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” để minh chứng một điều: Nguồn cảm hứng thi ca trong tâm hồn nhà thơ Nghiêm Thản đang dào dạt. Bạn bè, độc giả xa gần mong muốn anh cho ra đời nhiều tác phấm xuất sắc hơn.

                                                          Hà Nội tháng 2. 2012

                                      Nhà thơ: Xuân Hiến

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THÁNG GIÊNG

 

      Nắng còn non lắm tháng Giêng

Từng đôi én liệng chao nghiêng rỡn đùa

      Mạ non trải thảm gọi mùa

Sá cày đang nỏ đợi bừa dầm ngâm.

 

      Tháng Giêng tách vỏ cựa mầm

Từ trong nâu đất lạnh câm bấy ngày

      Cây bàng tích nhựa lâu nay

Giọt sương còn đọng gió nay non cành.

 

      Tháng giêng trời lại trong xanh

Hoa xoan lại tím trên cành hương bay

      Tết còn sót chút men say

Hoa đào rực rỡ bướm bay dịu dàng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Cùng nhau đi trẩy hội làng

Cùng nhau đi lễ xốn xang lòng người

      Tháng Giêng nghiêng sắc hoa tươi

Đâu đây khúc khích tiếng cười giòn tan.

 

      Hè Thu hương cúc hương lan

Tháng Giêng sau Tết đang tràn hương Xuân.

 

 

 

 

 

 

 

 

CHỒI XUÂN

 

Thương màu đất mùa Đông

Vắt kiệt mình nứt nẻ

Thương hạt cây nhỏ bé

Âm thầm đợi mưa Xuân.

 

Khi vũ trụ chuyển vần

Mưa rây rây rắc bột

Cửa nàng Xuân mở chốt

Nhựa ứa tràn sinh sôi.

 

Chim từng đôi từng đôi

Tha rác về làm tổ

Nhện giăng mùng mắc võng

Hạt mưa treo long lanh.

 

          

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Và em lại cùng anh

Xuống đồng đi đổ ải

Thóc giống mình đã vãi

Mạ nhú mầm non tơ.

 

Nghe em hát vu vơ

Trên đồng em áo mỏng

Hoa trên môi đỏ mọng

Kìa chồi Xuân - rất Xuân.

 

 

 

GIAO MÙA

 

Hoa xoan rụng trắng tràn lối ngõ

Hương bưởi còn sót lại cuối tháng Ba

Luống cà đã bắt đầu xanh tốt

Chùm vải đầu mùa đang đợi gió nồm nam.

 

Khi hoa phượng đã thôi thắp lửa

Bàng bung dù lác đác lá vàng rơi

Hoa cúc trong vườn đang còn e ấp

Gió heo về làm rối tóc em tôi.

 

Mây muộn nhởn nhơ trôi mặt nước

Tim tím hoa bèo, chim bói cá ngó nghiêng

Gió cuối Thu làm em tôi lành lạnh

Xích lại gần anh, trời đã sắp sang Đông.

 

Bên đống lửa chú mèo lim dim ngủ

Ngoài trời vẫn lất phất mưa bay

Biêng biếc chồi xanh, cành đào hé nụ

Tháng Chạp lùi dần, nhường chỗ Xuân sang

 

 

 

NHỊP SỐNG ĐỜI THƯỜNG

 

      Nghĩ đời lắm lúc trái ngang

Trời đang nắng ráo lại sàng mưa hoa

      Chuyện đời đâu phải món quà

Để buôn, để bán, nghe ra không vào.

 

      Cao xanh ơi hỡi xanh cao

Nghe con cóc kiện mưa rào đến nơi

      Xoay quanh cũng chỉ chuyện đời

Bố thua lại mắng con chơi lô đề.

 

      Mẹ chê con gái vụng về

Nồi cơm mẹ thổi sống khê mấy tầng

      Cải thơm thì phải có gừng

Cơm sôi bớt lửa xin đừng khó nhau.

 

      Được mùa nhãn mất mùa cau

Cả hai mùa mất dạ đau chín chiều

      Giá gương xin phủ nhiễu điều

Dây bầu dây bí còn nhiều vẫn vương.

 

 

 

 

 

 

 

 

LÀNG BÚN PHÚ ĐÔ

 

Đây Hồng Đô xưa - Phú Đô làng Bún

Đây đình vuông Tám mái uốn cong cong

Đền Sa Đôi thờ vị anh hùng dân tộc

 Soi bóng xuống dòng sông Nhuệ xanh trong.

 

Chùa đồng Bàn, chùa Thượng, Linh Sơn Tự

Đây đất thiêng quán thờ đức Hai Bà

Đây làng nghề có từ xa xưa lắm

Sợi bún oằn mình chìm nổi với ông cha.

 

Mẹ tần tảo vai mòn trơn đòn gánh

Cha thắt lòng khi nghe chợ đổ cơn mưa

Lớp lớp cháu con lớn lên từ sợi bún

Biết giữ gìn nghề Tổ tự ngàn xưa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ẩm thực Việt Nam muôn sắc muôn màu

Mang sắc thái riêng của mỗi miền dân tộc

Có rất nhiều những món ngon từ bún

Mát lòng người khi ăn bát bún riêu.

 

Sợi bún mượt mà dài theo lịch sử

Vất vả, nhọc nhằn, thử thách đầy vơi

Nay đã có thị trường cùng thương hiệu

Ta tự hào khi hàng tỏa muôn nơi.

 

 

 

 

 

 

 

 

CŨNG MỘT ĐÊM TRĂNG

 

Huế đêm trăng giãi vàng trên phố

Sương mù giăng lạnh lối ta về

Từ ấy xa nhau rồi để nhớ

Ta ngỡ mình chìm đắm trong mơ.

 

Gương sông Hương lấp lánh sao trời

Câu hát Nam Ai thả buông lơi

Ta đã hẹn thuyền ai đậu bến

Nước cứ trôi người cũ đâu rồi!

 

Trăng xuống nghiêng nghiêng sao vàng mãi

Lối cũ ta về lạnh bờ vai

Nhớ ai, ai nhớ sầu lẻ bóng

Thả bước ta về ai nhớ ai.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trăng lênh đênh ta ngỡ là thuyền

Trăng, mây, nước sao khéo đưa duyên

Để ai nhớ, ai thương, ai đợi

Đêm lặng lẽ gió thoảng ưu phiền!

 

Đây bến Nam Giao đêm sầu vắng

Đường Huế dài chẳng thấy bằng lăng

Trăng cứ sáng, lòng ta yên lặng

Thao thức mãi ơi hỡi vầng trăng.

 

Gió nhẹ lay, sông nước nhẹ lay

Lay cả vầng trăng, cả mây bay

Thuyền ơi! Có nhớ về bến cũ

Cũng một đêm trăng tình đắm say.

 

 

 

 

 

 

         

MỘT CÕI TIÊN

(Tặng nữ thích Thanh Thủy)

 

Lòng mềm yếu khó làm nên chính quả

Cái để mất, đã dần dần phải mất

Cái để quên, đâu có để mà quên

Cái để được, phải khổ luyện một đường tu.

 

Có Hai chị em người Thanh Hóa

Cha đã hy sinh chống Mỹ một thời

Theo mẹ tha phương quen sống ở chùa

Tương cà gạo hẩm với dưa chua.

 

Phận nghèo phải nương nhờ cửa Phật

Họ thoát đi thú tục ở trần gian

Sớm chiều kinh mõ không cô quạnh

Mải mê nghiên cứu Pháp Phật đàn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Chùa Thông ngày ấy hoang sơ lắm

Tiêu điều sắp sập giữa sơn ngàn

Cơ duyên thích nữ về tu tạo

Uy nghiêm tráng lệ dưới tán lan*.

 

Hành hương qua đây mời du khách

Xin hãy dừng chân chốn cửa thiền

Chùa Thông rộng mở lòng bác ái

Tĩnh tâm thanh thản. Một cõi tiên

 

___________

*Cây Ngọc lan cổ thu có tới hàng trăm năm tuổi

 

 

 

 

 

 

 

 

CHIA SẺ

 

Thẩn thơ khi em đứng bên hồ

Gió nhè nhẹ thổi sóng nhẹ xô

Nhìn chiếc lá rơi trên mặt nước

Đoạn trường đắm đuối giữa thành đô.

 

Anh muốn là đôi dòng nước mắt

Chảy thật nhiều tắm mát đời em

Hát em nghe lời ru của mẹ

Trở về kỷ niệm những rặng tre.

 

Anh muốn là những hạt bụi mưa

Cho mái tóc em ướt vừa vừa

Rồi ngắm em gội đầu hong tóc

Hương sả hương chanh dìu dịu đưa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh muốn là những giọt sương đêm

Cho mát vườn em liễu rủ mềm

Cho ướt mi em đêm khi ngủ

Nghe tiếng lá rơi khẽ chạm thềm.

 

Anh muốn là những rặng thông

Cho dù trời đất rộng mênh mông

Vẫn ru em trở về cánh võng

Thăm thẳm hồn quê đượm hương đồng.

 

 

 

    

    

           HỐI HẬN

 

      Ai làm bát đũa nó xô

Nỗi đâu đén nỗi đấm bồ đá nia

      Nào là mặt nọ mày kia

Lật mâm, đập bát, quẳng thìa, ném môi.

 

      Quai sanh vành chảo dế nồi

Vợ tôi nhịn nhục vẫn ngồi lặng yên

      Tỉnh ra mới thấy vợ hiền

Tình duyên sứt mẻ cùng tiền mất đi.

 

      Nóng nảy chẳng được ích gì

Anh đây biết nỗi thôi thì xin em

      Em đừng lạnh giá như kem

Miệng xà nhưng dạ vẫn thèm thủy chung.

 

      Thôi em đững nghĩ lung tung

Lần sau anh bớt đùng đùng lửa sôi.

 

 

 

 

 

HÔN

 

Trái đất cổ xưa chưa bao giờ cũ

Quỹ đạo đời thường anh lại gặp em

Hậu duệ là em, trong muôn vàn tinh tú

Lực háp dẫn nào - môi em chạm moi anh.

 

 

ĂN SÁNG

(Tặng nhà hàng Minh Sơn)

 

      Sáng ăn bát bún dọc mùng

Dẫu “không người lái” nước dùng vẵn ngon.

 

      Sáng mai mời vợ cùng con

Sang đây thưởng thức chắc còn ngon hơn.

 

      Cửa hàng đây hiệu Minh Sơn

Ấm lòng lữ khách, những cơn đói lòng.

 

 

 

 

 

 

 

 

SANG XUÂN

 

Sao bao giờ với em cũng mùa Đông!

Phòng không lẻ gối lạnh lắm không?

Cho anh chia sẻ dẫu mùa Thu đã cạn

Đắm đuối lá bàng em đừng ngại gió Đông.

 

Lá vàng rụng lặng yên về cội

Em một mình đếm từng nỗi đơn côi

Em lặng thinh như nghĩ về cổ tích

Thơ em buồn như cọng cỏ dưới chân đê.

 

Hãy quên đi những gì trong quá khứ

Thôi em đừng vắt kiệt những suy tư

Anh chỉ sợ em cười lên ngạo nghễ

Khi gục ngã và những phút đam mê.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hãy đứng dậy láy đớn đau làm sức bật

Đừng mạo hiểm một mình đứng chơi vơi

Sau cuộc hành trình em thường gục ngã

Em đã biết sau lưng những cuộc đời.

 

Thôi em đừng dào bới những Thiên Thu

Nơi nghĩa địa tim đâu ra hơi ấm

Hãy giữ lấy màu xanh bích ngọc

Số phận một phần. Đông hết phải sang Xuân

 

 

 

THÁNG CHẠP

 

Tháng Chạp đến được gần một nửa

Con hỏi mẹ sắp đến Tết chưa?

Lá bàng rụng xoay xoay trong gió

Đào quất bắt đầu bán lưa thưa.

 

Mưa bụi bay chờ ngày Xuân đến

Búp non tơ vẫn sợ gió Đông

Cuống rạ đồng chiều nhường ngọn cỏ

Người đến người đi đã dập dìu.

 

Vạt mạ bên đường xanh như lụa

Lác đác trên trời én nghiêng chao

Liệu Tết này anh có về không nhỉ

Chia sẻ vơi đầy những khát khao.

 

Con của chúng mình năm nay lớn lắm

Kể chuyện anh chúng rất tự hào

Biết mua quà chờ ngày tặng bố

Tết anh về hạnh phúc xiết bao.

 

 

 

TRĂN TRỞ

 

Ngẩn ngẩn, ngơ ngơ, sách gối đầu

Vướng vào nghiệp chướng đã từ lâu

Ngẫu hứng đề thơ sắp xếp câu

Các bậc hiền tài buông ý ngọc

Những cây bút trẻ nhả lời châu

Viết hay độc giả còn thưa thớt

Giải thích sao đây đỡ nhức đầu.

 

 

SẮC XUÂN

 

Giêng Hai hết Tết đã lâu rồi

Hương sắc mùa Xuân vẫn khắp nơi

Cây bưởi sau nhà đang trắng nụ

Cành xoan ngoài ngõ đã xanh chồi

Dập dìu trẩy hội vui trai gái

Nhộn nhịp chơi Xuân đẹp từng đôi

Đón Hạ nắng tràn cây đậu quả

Nồng nàn lắng đọng mãi trong tôi.

 

 

 

 

 

 

 

 

THƯ GỬI CHỊ

 

Em chỉ tiếc em đầu thai hơi muộn

Để tuổi em kém hơn tuổi chị nhiều

Chị đẹp thế lá “diêu bông” không tìm được

Buồn bao nhiêu càng nhớ chị bấy nhiêu.

 

Xuân năm ấy chị hẹn em đi chơi hội

Em mừng thầm, chưa kịp hỏi hội nơi đâu

Dù ở đâu, cùng chị đi em cũng thích

Em chờ hoài. Hội hết đã từ lâu.

 

Thư em viết tặng chị đầu năm ngoái

Bao riêng tư chia sẻ những nỗi lòng

Chắc chị đọc và hiểu em nhiều hơn thể

Lúc bấy giờ em như mớ bòng bong.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Em rút ra từ ngân hàng ký ức

Một buổi chiều chị mặc áo cô dâu

Chị càng đẹp lá “diêu bông” không có

Em đứng nhìn đò chị đã sang ngang.

 

Bên cánh đồng dưới triền đê mênh mông quá

Chị xa dần phía bờ bãi bên kia

Em thầm nghĩ nếu mai này gặp lại

Nói gì đây, hay lại tặng chị thơ.

 

 

 

 

 

 

 

 

HUẾ TRONG MƯA

 

Huế yêu ơi! Sao Huế mưa nhiều rứa

Mưa rầm rì rả rích mãi không thôi

Tôi ngẩn ngơ tìm đường xưa lối cũ

Đây chợ Đông ba quán ấy đâu rồi.

 

Ngàn thông reo lời ru nghe da diết

Núi Ngự Bình mờ ảo phía xa xa.

            Những tượng đá dầm mưa lăng Khải Định

Cành liễu đung đưa tha thiết la đà.

 

Chùa Thiên Mụ vẫn rêu phong tháp cổ

Bến Văn Lâu giăng lớp lớp sương mù

Ai đã đề bài thơ vào chiếc nón

Thả xuôi dòng tìm người cũ trong mơ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tôi lại về đây thăm thôn Vĩ Dạ

Ngan ngát hương cau, hoa trái trĩu cành

Gió nhẹ đưa trong vườn mưa lộp bộp

Bên ngôi nhà cổ bên lối trúc xanh.

 

Nơi Hoàng Thành vàng son rực rỡ

Nét chạm gỗ bao năm tháng chẳng mờ

Huế trong mưa khắc vào hồn du khách

Duyên dáng dịu dàng xứ Huế mông mơ.

 

 

 

 

 

GÁI PHÚ ĐÔ

 

      Giếng Trong ném đất xin thề

Cung Son cũng bỏ xin về quê hương

      Hai Bà là một tấm gương

Chung soi phụ nữ thân thương quê mình.

 

      Ca trù ngọt tới cung đình

Chầu văn, chèo cổ nặng tình nước non

      Một lòng cùng với chồng con

Hai vai gánh nặng, vẹt mòn gót chân.

 

      Chịu thương chịu khó chuyên cần

Những khi gian khổ xoay vần như không

      Nuôi con ngoan giỏi việc đồng

Đảm đang buôn bán gánh gồng ven đô.

 

      Dẫu cho bão táp sóng xô

Chị em xây dựng Phú Đô đẹp giàu.

 

 

 

PHẢI LÒNG

 

Đã đố thì anh thử lòng em

Sợ gió khẽ đưa đã lay rèm

Quân tử nhẹ nhàng - ong lấy mật

Mãi mùa xanh ấy cứ thử xem.

 

Anh cố đi tìm lá “diêu bông”

Yêu em anh muốn lấy làm chồng

Anh còn có loài hoa bất tử

Xin gửi tặng em dẫu em không.

 

Nếu mai mốt em đi lấy chồng

Phòng không lạnh lẽo rộng mênh mông

Anh vẽ hình em trên vôi trắng

Bâng khuâng chim én liệng trên đồng.

 

Ừ giá như anh không thử lòng

Chẳng bao giờ như mớ bòng bong

Lòng người sao mà nhiều dan díu

Chỉ thử thế thôi đã phải lòng.

 

 

 

CHIỀU PHỐ NÚI

 

Chiều nắng nhạt đổ xuống đường phố núi

Lòng bâng khuâng tìm lối cũ em chờ

Ngày anh đến gặp em nơi cuối dốc

Mây lồng sương, mưa bay rắc bụi mờ.

 

Thác buông mành suối reo tung bọt trắng

Suối bạc bắc qua bảy sắc cầu vồng

Anh khờ khạo nên má em càng đỏ

Rừng hoang sơ, xa xa vọng tiếng kồng

 

Nhành lan tím vẫn bám trên vách đá

Mùa năm nay sao lại nở hoa vàng?

Em có nhớ hai đứa mình cùng thích

Núi thì cao, suối chảy chẳng lối sang.

 

Nếu mai này em có về phố núi

Cuối dốc xưa anh hóa đá đợi chờ

Và cho dù nhành lan kia đổi sắc

Màu tím trong anh mãi chẳng phai mờ.

 

 

 

LÊN VÙNG CAO

 

Lên vùng cao tôi tập làm người sơn cước

Trút bỏ comple mặc quần áo xanh chàm

Mấy bạn gái bận váy xanh khăn đỏ

Em cúi đầu thổi lửa nướng cơm lam.

 

Bỏ bia lon uống nước vầu trong mát

Ăn côn trùng như thời thuở hồng hoang

Trải lá nằm không còn lo vắt cắn

Rừng tươi xanh chưa tan hết sương mờ.

 

Quanh đống lửa cộng đồng người thiểu số

Dậy cho tôi thổi điệu sáo điệu khèn

Tập cho tôi những điệu xòe điệu múa

Rượu cần thơm đã chếnh choáng hơi men.

 

Nghe em gọi bạn tình bằng kèn lá

Nhịp con tim vang vọng núi rừng thiêng

Bản sắc riêng ôi! Mọi miền Tổ quốc

Có cuộc tình tím hơn cả đồi sim.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGƯỜI DƯNG

 

      Anh người dưng em cũng người dưng

Xa nhau gặp lại mừng mừng, nao nao

      Ước gì cách một bờ rào

Để khi ta nhớ ta vào thăm nhau.

 

      Ước gì ngan ngát hương cau

Luồn qua cửa sổ phía sau em nằm

      Ước gì như ánh trăng rằm

Lọt vào tận chỗ con tằm nhả tơ.

 

      Sao mình cứ nghĩ vu vơ

Của mình không phải vẫn mơ chung đường

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỚ HƠI MEN

 

      Quán tình em trút hơi men

Để ai ngây ngất dẫu quen lần đầu

      Ngoài trời sùi sụt mưa ngâu

Ai quên ai nhớ ai sầu bòng bong.

 

      Hay là ai đã chạnh lòng

Câu thơ viết dở vẫn mong ngọt ngào

      Đêm nằm chỉ thấy chiêm bao

Một lần gặp lại lối vào quán xưa.

 

      Ngoài trời vẫn vẫn sụt sùi mưa

Hạt rơi xuống đất hạt cưa vào lòng

      Vòm trời ai lỡ uốn cong

Để thương để nhớ để lòng vấn vương.

 

 

 

THƠ TẶNG EM

 

Có phải vô tình tay chạm tay

Làm thức dây mọi miền rung cảm

Nhớ mãi không quên thưở ban đầu

Gửi tặng em anh viết một đôi câu.

 

Thời gian trôi đi như lịch sử

Thôi em đừng làm kẻ vô tư

Nhấm nháp mãi nỗi đau thiên hạ

Rồi để cuộc đời mãi cô đơn.

 

Xuân đi qua nắng chan hòa rực rỡ

Anh thương em thương tuổi xuân thì

Hạ đã trắng Thu vàng sẽ chín

Quỹ thời gian ngày một vơi đi.

 

Đôi chim câu mớm hơi đấu mỏ

Ghế đá công viên hai bạn trẻ tự tình

Em đang đẹp như câu thơ bỏ ngỏ

Tình yêu thơm như trái chín đầu mùa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

XIN ĐỪNG

 

      Củ gừng kể chuyện đắng cay

Củ khoai kể chuyện những ngày đói cơm

      Anh thích em thổi cơm rơm

Lửa hồng vừa tắt đã thơm má đào.

 

      Chuồn chuồn đậu cọc cầu ao

Hoa bèo tim tím còn xao xuyến lòng

      Em đừng như mớ bòng bong

Rối thì đã rối lửa lòng đang nhen.

 

      Những khi tắt lửa tối đèn

Nếu yêu anh thật đừng ghen làm gì.

 

 

 

XUÂN HÀ NỘI

 

Để đón Xuân mọi người vui ríu rít

Chị cả chị hai rửa lá dong xanh

Mẹ cẩn thận chắt lọc từng hạt nếp

Loại bỏ đi những thứ chẳng vừa lòng.

 

Đất Thăng Long thêm bề dầy lịch sử

Phơi phới chào Xuân thấm đẫm tình người

Đào Nhật Tân trên môi em khoe sắc

Vẫn thủy chung nghe vũ trụ chuyển vần.

 

Vọng xa đưa tiếng chuông chùa Trấn Quốc

Gió Hồ Tây nhẹ đẩy lớp sương mù

Đàn sâm cầm rủ nhau về bơi lội

Từng đôi, từng đôi người Hà Nội tự tình.

 

Hồ Gươm xanh nhớ Thần Rùa trả kiếm

Tháp Bút ngàn năm viết mãi lên trời

Sông Hồng reo vẫn tô son Hà Nội

Các đấng anh linh tỏa sáng muôn đời.

 

KHÓC ANH VIỆT CƯỜNG

 

      Việt Nam có một làng thơ

Ngọt câu lục bát bên bờ sông xanh

      Nghiêng mình hương khói viếng anh

Làng Chùa mất một bút danh Việt cường.

 

 

MƯA XUÂN

 

      Xuân về mưa bụi êm êm

Lá vàng sót lại chạm thềm đón Xuân

      Lắng nghe đất nước chuyển vần

Đường Xuân phơi phới, mưa Xuân ngọt ngào.

 

 

CÁI QUẠT TREO TƯỜNG

(Quà tặng bạn thơ)

 

Không phải Mười Bảy, Mười Tám đâu

Cũng không làm mát chẳng che đầu

Hăm Hai tằm ấy nhiều lưu luyến

Quà quý bạn trao lắm sắc màu.

 

 

 

ĐIỆN HÒN CHÉN

 

Thu Hà Nội Hồ Tây gợn sóng

Huế sông Hương như dải lụa mềm

Mái chèo đưa nhẹ tan ánh bạc

Du khách đường xa có nhớ nhà.

 

Cây si xõa tóc sông Hương gội

Kia rồi hòn Chén ẩn trong sương

Bên bờ thuyền ai chờ đợi khách

Thả nổi câu hò giữa dòng Hương.

 

Dây leo vấn vít hoang sơ quá

Lô nhô đá núi phủ rêu mờ

Những cây cổ thụ bao năm tuổi

Buông mành cành liễu rủ lơ thơ.

 

Lên điện nghiêng mình thắp nén nhang

Ông cha hào khí thật huy hoàng

Chắp tay vái lạy anh linh kiệt

Sử vàng hòn Chén tỏa hào Quang.

 

 

 

 

 

 

 

 

TRÁCH MÌNH

 

Tình cờ gặp nhau em như hẫng hụt

Đã mấy ai quên được mối tình đầu

Đôi mắt buồn em tìm về quá khứ

Trộm liếc nhìn nhau mà ngực nhói đau.

 

May mắn thay ba người đều yên lặng

Người ấy khổ đau khi dứt một cuộc tình

Em luống cuống đứng giữa hai dòng nước

Không làm em quên tôi tự trách mình.

 

Cuộc tình tay Ba tôi là người thắng cuộc

Được vợ yêu hạnh phúc mỉm cười

Đứa trẻ lên Ba bi bô gọi bố

Thua cuộc lúc này lại chính là tôi.

 

 

 

 

 

 

 

 

VỀ THĂM HUẾ

 

Tôi lại về đây thăm xứ Huế

Đến Trúc Lâm quay lại Từ Đàm

Thắp nén nhang tỏ lòng thành kính

Huế về chiều buông tỏa khói lam.

 

Tôi lắng nghe điệu hò Mái Đẩy

Sông Hương chảy theo mạch thơ tuôn

Những nỗi buồn trôi theo dòng nước

Phía xa xa chớp giật mưa nguồn.

 

Lăng Tự Đức chát chồng thềm đá

Tượng vô chi mưa nắng dãi dầu

Em ở đâu hay em lỗi hẹn?

Núi Thiên Thai mây trắng đội đầu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đến Thiên Mụ nhớ trường Đồng Khánh

Nơi hẹn hò tới bến Văn Lâu

Câu thơ viết còn đang bỏ dở

Trời xao lòng cũng sùi sụt mưa ngâu.

 

Nơi Hoành Thành sen đang nở rộ

Rất uy nghiêm mũ áo Hoàng bào

Thềm gạch cũ dầy thêm rêu phủ

Vẫn còn đây triều Nguyễn một thời.

 

 

 

ĐÁ VỌNG PHU

 

Quanh co con đường lên xứ Lạng

Chạng vạng mây buông một ráng chiều

Rõi về đâu ơi Vọng Phu đá?

Dẫu ngàn năm… biển xóa dã tràng.

 

Anh em ly tán thành chồng vợ

Ai khéo đặt bày chuyện trái ngang

Người đi biền biệt không quay lại

Người ở ngóng trông đến mỏi mòn.

 

Chùa Tam Thanh thà đành cắt tóc

Còn hơn gan góc đứng chờ chồng

Hay lộn kiếp đổi đời sau đi vậy

Đã khổ mình lại khổ lây con.

 

Hóa đá ngàn năm còn đứng đợi

Mặc nắng, mặc mưa, mặc chuyện đời

Vời vợi sáng trong ơi gương đá

Người vợ thủy chung hóa tượng đài.

 

 

 

HÀ NỘI VÀO ĐÔNG

 

Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

Đèn cao áp như mờ hơn một chút

Thương cây bàng một mình đứng đơn côi.

 

Dạo đường Thanh Niên em quấn thêm khăn cổ

Cái rét đầu mùa làm em nhớ đến anh

Quanh đống lửa xòe tay tìm hơi ấm

Nơi đảo xa anh có nhớ đất Hà Thành!

 

Góc phố nhỏ thoảng đưa mùi ngô nướng

Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay

Gói lạc rang trong lòng tay âm ấm

Anh có về tìm lại chút men say.

 

Hà Nội vào Đông, không an em buồn lắm

Hàng liễu bên hồ vẫn buông thả mành xanh

Em chờ anh - em chờ hơi ấm

Anh chậm về em sợ cạn mùa Đông.

 

 

 

TẮM SUỐI KIM BÔI

 

Khắp mọi miền có nhiều khu du lịch

Tôi ngâm mình trong dòng khoáng Kim Bôi

Nước nóng ấm như sà vào lòng mẹ

Tổ quốc mình là một chiếc nôi.

 

Không biết bơi ư? Lại đây anh dạy

Giữa núi rừng xuất hiện một nàng tiên

Nâng mình thon, tay chân em khỏa nước

Em thông minh làm anh thoảng ưu phiền.

 

Biết bơi rồi em tự do vùng vẫy

Buồn vui anh biết trước phút giây này

Lăng kính nước càng làm em thêm đẹp

Không giữ được, em đã tuột khỏi tay.

 

Uống nước đi, ta uống khoáng Kim Bôi

Vị ngọt ngào đọng mãi bờ môi

Tắm nước suối vẫn thấy mình đang khát

Lưu luyến quá, thôi tạm biệt Kim Bôi.

 

 

 

XUÂN VỀ

 

Cái rét cuối mùa không còn buốt giá

Trời thủng ra những mảng trong xanh

Cây chanh đã bát đầu tấm nụ

Tiếng chim sâu chích chích ở trên cành.

 

Chim én về chao mình trong nắng mới

Ruộng trên đồng lúa đã lên xanh

Khói bếp lam chiều thơm thơm mùi củi

Rau lang đầu mùa đậm ngọt nồi canh.

 

Anh cùng em xuống đồng đi làm cỏ

Đàn trâu bò thong thả gậm sương mai

Nghe đâu đây tiếng gì khe khẽ

Hay tiếng mùa  Xuân nhón gót hài.

 

Thế là Xuân đã về rồi anh nhỉ

Xuân của chúng mình Xuân của đất trời

Lửa mẹ giấm hai ta thành đôi lứa

Hạnh phúc nào bằng khi nghe tiếng à ơ!

 

 

 

 

 

 

 

 

HOA GIẤU MẶT

 

Lần đầu tiên tôi đến Sơn La

Đất Tây Bắc có nhiều loài hoa lạ

Sắc màu lung linh mọc chen trong đá

Hoa đào gì mà lại nở cuối Thu?

 

Có loài hoa rất giống chiếc đèn cù

Không ngửa, không nghiêng, không khoe sắc

Xin hỏi mọi người hoa tên gì đấy nhỉ?

Lắc đầu tất cả nói chịu thôi.

 

Màu hồng tươi nở khắp phố đồi

Xa xa ngắm đẹp như nàng tiên nữ

Hoa giấu mặt thẹn thùng ý tứ

Vẻ đoan  trang e ấp ở trên cành.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hoa khoe mình dưới tán lá xanh

Một loài hoa giữa miền sơn cước

Không kiêu sa, rực rỡ khắp bản mường

Kín đáo dịu dàng phảng phất đưa hương.

 

Cảm ơn thiên nhiên, cảm ơn tạo hóa

Đã cho Sơn La muôn sắc muôn màu

Cho Tổ quốc mình thêm xinh đẹp

Cho tình người mãi thắm đậm lắng sâu.

 

 

 

 

 

 

 

 

VẪN CÒN TRINH NGUYÊN

 

      Cái thời con gái lưng ong

Tình yêu một phía vẫn mong có chồng

      Anh cao xạ, em phòng không

Anh như gió cuốn mùa Đông em chờ.

 

      Tình yêu như tỉnh như mơ

Chẳng ai sui khiến mà khờ mà ngây

      Muốn sang đò đã quá đầy

Vườn Xuân đương độ, đương mùa trầu cau.

 

      Khi gặp nhau buộc nỗi đau

Vợ anh đã mất con đầu gửi nuôi

      Bỏ buồn mòn mỏi khôn nguôi

Gà con nhớn nhác anh xuôi suối vàng!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Sao tình lắm nỗi đa đoan

Vẫn con, vẫn mẹ, vẫn còn trinh nguyên

      Vẫn mong có bến có thuyền

Mừng con, con đã nên duyên vợ chồng.

 

      Bây giờ em vẫn phòng không

Vẫn mong có cháu bế bồng cho vui

      Tình yêu khi tới khi lui

Sao không nói hộ một lời cho nhau.

 

 

 

 

 

 

 

 

VIẾT NGÀY 30.4

 

Nắng đầu Hè nắng chan hoa rực rỡ

Đổ xuống đường thành phố giữa ban trưa

Chùm sấu xanh non, giấu mình trong kẽ lá

Có vui lòng khi mát bát canh chua.

 

Hàng phượng vĩ chìa tay ra vẫy vẫy

Thắp lửa ban ngày như sắp có tin vui

Đỏ rực lên như màu cờ chiến thắng

Cô nữ sinh chắc chưa hết ngậm ngùi.

 

Vải chín vàng đẹp hàng quầy hoa quả

Bán rẻ đi anh tặng chút hương lan

Sen đang độ nở trong hồ hồng thắm

Thoảng đưa thơm quê Bác Nam Đàn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Giã thành phố không có chim tu hú

Nghe đâu đây xao xác lá vàng rơi

Những giọt lệ ấm lăn tròn trên má

Khi nhận ra tin chiến thắng tuyệt vời.

 

Khi nhận ra tin Sài Gòn giải phóng

Sau giây phút nín lặng nghe đài

Nắng thành phố càng người lên rạng rỡ

Phượng lại nở bung trên mọi nóc nhà.

 

 

THẦM LẶNG

(Tặng mẹ - vợ liệt sĩ)

 

Thầm lặng mình ơi! Ai biết đây

Ai biết tình ta đã đong đầy

Nhớ chồng ra đứng bờ tre ngóng

Chỉ thấy trời cao với đất dầy.

 

Lấy nhau chưa kịp bến hơi chồng

Mà em đã phải chịu phòng không

Em biết anh còn nhiều vất vả

Mái bếp bao giờ âm lửa hồng.

 

Đêm ây anh về dăm bảy phút

Thương chồng hỏi nhỏ anh ở đâu?

Bí mật xua tay đầu khẽ lắc

Sao anh không nói một đôi câu.

 

Một nửa, một mình, một giác mơ

Vô tình con nhện nhả đường tơ

Bếp lửa chiều nay sao đắng khói

Anh lại ra, đi em lại chờ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhớ anh em chỉ biết thở dài

Anh bảo sẽ tin ở ngày mai

Ngày mai chưa tới anh đã khuất!

Giặc giết anh rồi! Bụn mang thai.

 

Nợ nước thù nhà chưa trả được

Ôi! Sao chiến tranh mãi kéo dài

Giặc còn chưa biết em là vợ

Đau xót này biết chia sẻ cùng ai.

 

Rồi đến ngày Thành Đô giải phóng

Buồn vui lẫn lộn rộn trong lòng

Bao nhiêu bà mẹ run tay vẫy

Em dắt con đi đón quân về.

VẤN VƯƠNG TAM ĐẢO

 

      Gần trời Tam đảo nhiều mây

Bâng khuâng phố núi giăng đầy sương rơi

      Lạc đường lên tận cỏng trời

Trùng trùng núi biếc, xanh vời vợi xanh.

 

      Nhập nhòa mây khói vây quanh

Tiếng chim mách lẻo bảo anh lối này

      Ngẩn ngơ như tỉnh như say

May mà gặp được em đây dẫn đường.

 

      Nhẹ nhàng em vén mây sương

Đưa nhau xuống dốc phố “vương” cùng về

      Kia rồi đấy quán cà phê

Quanh co dễ nhớ, khó về thế em.

 

      Xin mời em một ly kem

Cảm ơn phố núi gặp em thân tình

      Cảm ơn em gái tươi xinh

Mai xa Tam Đảo nghĩa tình vấn vương.

 

      Ngoài trời vẫn mập mờ sương

Để đường phố núi dễ thương khó về.

 

HỒN THI SĨ

 

Ngày Tết Nguyên Tiêu ngày Hội thơ

Nơi đây Văn Miếu rực hoa cờ

Quầy bàn la liệt mời mua sách

Quán nhỏ hai bên gọi bán thơ

Giảm giá hai lần thơ vẫn ế

In thêm nghìn cuốn sách còn mơ

Thanh tao thanh nhã hồn thi sĩ

Tuấn kiệt anh linh đáng phụng thờ.

 

 

MẸ TÔI

(Mừng thọ mẹ)

 

Nhà nghèo nuôi dậy bốn người con

Bác Đảng dẫn đường dựng nước non

Thuở ấy lưng ong hừng má thắm

Bây giờ đầu bạc nhạt chân son

Đơn côi xa xứ không cha mẹ

Hội tụ về quê đủ cháu con

Mãi nhớ trong tâm lời mẹ dạy

Đầy vơi chia sẻ tấm lòng son.

 

 

 

 

 

 

 

 

CHIỀU SÂN GA

 

Đón đợi người thân trước sân ga

Người quen không thấy bao người lạ

Còi tàu hú lên như giục giã

Người lại người qua mỗi chuyến tàu.

 

Tôi thấy một đôi họ ôm nhau

Sụt sùi nức nở nhàu vai áo

Họ định chia tay bao lâu nhỉ

Để còn toan tính chuyện trầu cau.

 

Tâm sự với cô bán bánh mì

Cô kể chuyện mình lúc phân ly

Người đi đã hẹn ngày trở lại

Mà bao năm thắng chẳng tin gì.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh binh nhất vội bước vào ga

Tiễn anh bạn bè cùng trang lứa

Họ nắm tay nhau đầy hứa hẹn

Tuổi trẻ dâng tràn những ước mơ.

 

Bao nhiêu tuổi đấy hai em gái

Người ra đi là một bạn trai

Ô nhỏ che chung cùng đưa tiễn

Chiều vàng đổ xuống nắng tràn vai.

 

Hun hút dần xa chuyến tàu dài

Dõi dõi theo chỉ còn một chấm

Vẫn thấy bao nhiêu bàn tay vẫy

Người  đến người đi trước sân ga

 

 

 

 

 

 

 

 

PHÚT CHIA TAY

 

Mùa thi gọi chúng mình vào trang sách

Hoa phượng bừng lên đỏ sắc màu

Vào phòng thi là hồi căng thẳng nhất

Hạnh phúc đến gần lại nghĩ chia tay.

 

Chúng ta xa nhau bùi ngùi bịn rịn

Tay nắm tay buổi họp lớp cuối cùng

Ta thầm nghĩ mình lớn lên vững chãi

Bước vào đời như cuộc chiến xông pha.

 

Những tiếng cười giòn tan và trong trẻo

Không dấu nổi man mác một nét buồn

Những kỷ niệm ấm nồng thời tinh nghịch

Ta sẽ mang đi suốt cuộc hành trình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mai xa rồi mỗi người mỗi ngả

Đừng bao giờ quên những phút giây này

Ta sẽ bắt đầu những ngày tươi đẹp

Tổ Quốc đang cần sức trẻ hăng say.

 

Ôi phút chia tay lòng bâng khuâng quá

Lá me bay vương trên những mái đầu

Ta sẽ kể về nhau xin đừng ý tứ

Mỗi đứa một đường không biết sẽ về đâu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MÊNH MANG YÊN TỬ

 

Mênh mang Yên Tử ngất tầng mây

Đức Phật nước Nam có tự đây

Núi biếc trập trùng, chim vượn hót

Rừng xanh thăm thẳm, quế lan bay

Vua Trần thanh tịnh rời cung điện

Phật tử tĩnh tâm đến chốn này

Lịch sử muôn đời ghi dấu tích

Chùa Đồng nghi ngút khói hương bay.

 

 

 

 

 

 

 

 

TRỞ LẠI TRƯỜNG SƠN

 

      Hôm nay trở lại Tường Sơn

Nhớ khi gió núi nhớ cơn mưa rừng

      Đông Trường Sơn rét thấu sương

Áo quần ướt sũng bừng bừng sốt cao.

 

      Cùng nhau chung một chiến hào

Thôi anh nằm lại tôi vào sâu hơn

      Trườdng Sơn ơi! Hỡi Trường Sơn

Hoang vu rừng núi, dập dần bướm bay.

 

      Đúng rồi đích thực chỗ này

Cách bờ suối nhỏ năm cây gậy Trường

      Ni lon gói một nắm sương

Đưa anh về với quê hương xóm làng,

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐÊM THU

 

Vạt cỏ gà loang đã ngậm sương

Đâu đây thoang thoảng sữa đưa hương

Đêm Thu lạnh lẽo trăng vằng vặc

Xin hỏi vàng ai vãi xuống đường.

 

Nhớ mãi đêm Thu nơi xứ lạ

Quên sao buổi ấy gặp người thương

Đan tay dạo bước bên lề cỏ

Một chút vô tình mãi vấn vương.

 

Sương Thu còn đọng bên bờ lá

Chuông chùa vang vọng phía xa xa

Trăng đã xế tà, đàn khuất núi

Ta tiễn trăng về đêm sắp qua.

 

 

 

 

 

 

 

VIỆT NAM THẾ RỒNG BAY

 

Hỡi các nhà sinh học

Có phải từ xa xưa lắm

Trong thiên nhiên có thật con Rồng?

 

Ở hàng “chi” Mười Hai con giống

“Tý” đứng đầu, “Thìn” đứng mãi thứ Năm

Trong biểu tượng Rồng cao sang quyền quyền quý

Nơi đền dài, miếu mạo có Rồng bay.

 

Ta tự hào!

Thủ Đô Thăng Long một thuở

Đất nước kiêu hùng có tự ngàn xưa

Tạo hóa ơi! Ta cảm ơn nhiều lắm

Đã tạo dựng cho ta một hình hài

Dáng đứng Việt Nam - dáng đứng Rồng bay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DẤU CHẤM THAN

 

Con sông nào cũng đổ về biển cả

Lá vàng rơi, đâu bão táo dập vùi

Đời muốn dài nhưng chống sao quy luật

Dấu chấm than lẫn lộn cả vui buồn.

 

 

VIẾNG MỘ TẢN ĐÀ

 

Về Khê Thượng viếng mộ Tản Đà

Nghiêng mình lặng lẽ viếng hương hoa

Túi thơ đâu nhỉ? Đây bầu rượu

Hay đã cùng thơ cất cánh bay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHA MẸ

 

Bùn dẫu hôi tanh hoa sen vẫn thắm

Cha mẹ dù gì vẫn đẻ ra ta

Công nuôi dưỡng lớn hơn trời biển

Bước vào đời ta mới hiểu nghĩa mẹ cha.

 

 

EM VỀ

 

Tôi mong em về nhưng lại trốn đi

Hay tôi đã thành viên đá vô chi

Mừng cho em những gì em đã có

Hạnh phúc ngọt ngào có cả máu hồng tươi.

 

 

 

 

 

 

 

 

NỖI ĐAU NGƯỜI LÍNH

 

Vợ chồng ai chẳng muốn vuông tròn

Anh lên đường làm trọn việc nước non

Trí làm trai không bao giờ nợ nước

Thân làm gái vẫn một dạ sắt son.

 

Anh trở về khi Mỹ Ngụy đã tan

Hết chiến tranh chưa hết cảnh điêu tàn

Đất nước đã hoàn toàn giải phóng

Anh ôm em xiết chặt vào lòng.

 

Hạnh phúc riêng anh chẳng nhiệm màu

Ôi! Hỡi trời anh có tội gì đâu

Mà vợ sinh con thành dị tật

Thiếu chân, thiếu mắt, lại to đầu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ôi! Chiến tranh sao lại hóa kéo dài

Tội ác này xin hỏi tại ai?

Tòa án đâu sao không ai minh xét

Đứa trẻ sinh ra cũng một kiếp người.

 

Ôi! Nỗi đau như dao cắt vào lòng

Những ước mong, khát khao, và sung sướng

Cháy ruột gan, tất cả thành vô vọng

Thành mạch lệ ngầm chảy ngược vào tim.

 

 

 

 

 

 

 

 

CON THI ĐẠI HỌC

 

Xưa nhà mình nghèo bố không được học

Bà dỗ danh bố vẫn khóc bao nhiêu

Nghe tiếng trông trường từ xa vọng lại

Thương bố nhiều bà cũng khóc thầm theo.

 

Bữa trước ấy con đi thi đại học

Điều đầu tiên, ôn định chỗ ăn nằm

Và sau đó tìm đường đi nước bước

Đừng uổng công ăn học bấy nhiêu năm.

 

Những ngày này đường phố sao đông thế

Khẩn trương lên, kéo lại hóa trễ giờ

Mừng với lo trong lòng đang trộn rộn

Làm được bài đó là những ước mơ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vào phòng thi con thi kiến thức

Bố ở ngoài liên tục đếm thời gian

Hãy tự tin con làm bài thật tốt

Con đậu rồi bao lo lắng tiêu tan.

 

Cả nhà ta mừng vui khôn xiết

Lớp tiếp theo con gắng học thành tài

Trong trường đời còn nhiều gai góc

Bố thích nhà mình luôn luôn có hoa tươi

 

 

 

            ĐÔI BỜ

 

Đôi ngả vô tình một dòng sông 

Em bờ bên ấy anh bên này

Đôi bờ ngăn cách cùng chung bến

Chung cả con đò tình đắm say

 

Những mùa lũ về bờ xa tít

Sông tải phù sa nước đục ngầu

Quay mũi con đò sang bên ấy

Bên này để khách phải đợi lâu.

 

Nước cạn mùa về sông nhỏ lại

Hai bên ngô lạc lại xanh màu

Con đò qua lại thôi vất vả

Xích lại gần nhau bến đôi bờ.

 

Thương cho đôi bờ luôn ngăn cách

Trách dòng sông sao nỡ vô tình

Dẫu cho mãi mãi thuyền chung bến

Đến với nhau chỉ có đôi mình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THƯ CHÚC BẠN

 

      Đôi lời gửi Vũ Minh Thêu

Tình yêu tím cả trời chiều ước mơ

      Bằng lăng tím đến thẫn thờ

Mười Hai Xuân ấy vẫn chờ vẫn mong.

 

      Sắt son chung thủy một lòng

Mớ bòng bong đã gỡ xong muộn tình

      Soan chồng soan vợ càng xinh

Không còn một nửa một mình đơn côi.

 

      Những đêm vò vó hết rồi

Bây giờ hai nửa một đôi êm đềm.

 

 

 

HÃY CỨU LẤY DÒNG SÔNG

 

Tôi và em chung một dòng thon thả

Nước gương trong soi bóng lũy tre già

Tuổi học trò ôm bao nhiêu kỷ niệm

Khi con nước về mang nặng phù sa.

 

Rặng phi lao đôi bờ xanh mướt

Ruộng ven đê điểm trắng mấy co cò

Khi nhớ em anh muốn sang bên đó

Nhưng tiếc thay lại thiếu một con đò.

 

Tam biệt em anh lên đường nhập ngũ

Nơi chiến trường da diết nhớ quê nhà

Nhó con sông cầu chưa nối nhịp

Những buổi chiều tà anh vẫn bơi qua.

 

Nay trở về bao nhiêu điều thay đổi

Ai đã xóa em rồi! Xóa cả môi sinh

Nhuệ Giang ơi! Không còn thơ mộng nữa

Hỡi cộng đồng hãy cứu lấy dòng sông.

 

 

 

CÁI NẾP

 

Những nếp gấp, nếp nhăn đều là nếp

Đã thành nếp rồi rất khó xóa đi

Là nếp đẹp ai cũng mong giữ lại

Nếp xấu bỏ đi bởi nó chẳng hay gì.

 

Nếp sống cổ xưa, chưa có gì thay đổi

Một ngôi nhà cũ, một lối đi mòn

Dẫu tô son có thể thành huyền thoại

Nếp đẹp - ngàn đời truyền mãi cháu con.

 

Những nếp xấu người đời không chấp nhận

Nếp sống, nếp ăn, nếp ở, nếp nhà…

Từ lao động do con người tạo dựng

Từ ngàn xưa nếp đẹp đã thành lề

 

Mỗi nơi mỗi nhà có riêng cái nếp

Bếp khói chiều hôm xóm xóm xum vầy

Thanh lịch hào hoa, nếp người thành phố

Nếp đẹp chung biết chia sẻ vơi đầy.

 

 

 

MỘT ĐÔI

 

Dạo này không thấy em ra bến

Chỉ ước bên này cũng có chợ phiên

Một tháng đôi lần thấy em qua lại

Cho bớt quanh hưu bớt ưu phiền.

 

Em về bên ấy chắc em còn nhớ

Dưới triền đê hai đứa bước song song

Chỉ một mình tôi vụng về ngượng nghịu

Đưa kách sang sông, khách chẳng bận lòng.

 

Sông cứ chảy vô tình chia hai lối

Bên đục bên trong mà vẫn chung dòng

Bên kia bồi đắp, bên này thì lở

Chiều chiều ngắm sông, day dứt trong lòng.

 

Tôi rất thích hoa một bông cắm lọ

Để gửi tặng em, nhưng đã muộn rồi

Thôi chúc em đời đời hạnh phúc

Tình bạn ngọt ngào, mình vẫn chung đôi.

 

 

 

 

 

 

ĐẾN CHÙA THÔNG

 

      Những lần tôi đến chùa Thông

Hương lan ngan ngát mênh mông xóm chùa

      Cây cao cành cả gió đùa

 Dập dìu lữ khách vào chùa viếng thăm.

 

      Ngày Tuần mồng một, ngày rằm

Tiếng chuông tiếng mõ, rì rầm tiếng kinh

      Nghĩ người lại nghĩ tới mình

Tĩnh tâm, thanh thản, nghĩa tình là đây.

 

      Sân chùa rợp mát bóng cây

Người lui, người tới đong đầy đường tu

      Xa đưa vọng lại lời ru

À ơi! Con ngủ  mẹ tu đường đời

 

                   Chùa Thông 30.4.2011

ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY – “HÀ NỘI VÀO ĐÔNG” CỦA NGHIÊM THẢN

 

HÀ NỘI VÀO ĐÔNG

                                                

Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

Đèn cao áp như mờ hơn một chút

Thương cây bàng một mình đứng đơn côi.

 

Dạo đường Thanh Niên em quấn thêm khăn cổ

Cái rét đầu mùa làm em nhớ đến anh

Quanh đống lửa xòe tay tìm hơi ấm

Nơi đảo xa anh có nhớ đất Hà thành.

 

Góc phố nhỏ thoảng đưa mùi ngô nướng

Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay

Gói lạc rang trong lòng tay âm ấm

Anh có về tìm lại chút men say.

 

Hà Nội vào Đông không anh em buồn lắm

Hàng liễu bên hồ vẫn buông thả mành xanh

Em chờ anh - em chờ hơi ấm

Anh chậm về em sợ cạn mùa Đông.                                

Lời bình: của Xuân Hiến

     Khi những đàn sếu dang rộng cánh bay trên bầu trời về phương Nam để tránh rét, không khí se lạnh trùm lên mọi lối, là dấu hiệu mùa Đông đã về, và nguồi cảm hứng thi, ca, nhạc, họa lại ngân lên trong lòng các văn nghệ sĩ. Nhạc sĩ Trương Quý Hải trong bài “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” có những ca từ rất đẹp:

“Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa

Cái rét đầu Đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh

Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp

Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về.

 

Hà Nội mùa này chiều không buông nắng

Phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô

Quán cóc liêu xiêu một câu thơ

Hồ Tây, Hồ Tây tím mờ”.

     Với Nghiêm Thản vừa  là nhà nghiên cứu phê bình văn học, vừa là nhà thơ, chắc hẳn anh viết phải có trách nhiệm với từng câu chữ của mình. Trong thi phẩm “Hà Nội vào Đông” lại thể hiện bằng những lời thơ dịu ngọt:

       “Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

        Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

    Đèn cao áp như mờ hơn một chút

    Thương cây bàng một mình đứng đơn côi”.

     Khổ đầu với 4 câu là một bức tranh thật đẹp, mỗi câu thơ là một hình ảnh rất thân thương “Mái tóc em/ cỏ công viên/ sương ướt/ đèn cao áp như mờ hơn/ cây bàng đứng đơn côi”. Đây chính là tính họa trong thơ, cả khổ thơ là một bức tranh thật đẹp và lãng mạn, rất giàu hình ảnh.

     Một mùa Đông rất riêng của Hà Nội được tác giả mở đầu bằng câu “Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa” cho ta thấy câu thơ đẹp, chất lãng mạn trong thơ bay bổng đến diệu kỳ. Thật tuyệt vời! Phải chăng mùi hoa sữa thôi vương, thôi vương trên mái tóc em còn phảng phất trong anh. Các hình ảnh “Thôi vương mùi hoa sữa, cỏ công viên, sương ướt/ đèn cao áp như mờ hơn” là những kỷ niệm đẹp của tình yêu đôi lứa và cũng là dấu hiệu đã sang Đông. Đây cũng là cách viết, cách dẫn dắt độc giả vào một mùa Đông thật đẹp thật thanh bình.

     Ở đây ta thấy nếu 3 câu trên của khổ đầu nhắc đến ngoại cảnh thì câu thứ 4 là câu kết “Thương cây bàng một mình đứng đơn côi” lại là một hình ảnh rất mùa Đông. Nhà thơ Nghiêm Thản đã biến hình ảnh “cây bàng đứng đơn côi” thành hình tượng (em) người con gái. Thương cây bàng hay thương người đang lẻ bóng, đang cần hơi ấm của tình yêu.

    Đến đây tôi càng thấm thía lời tâm sự của anh trong những lúc đàm đạo văn chương anh vẫn nói: “Mình là người cầm bút cần phải trải lòng mình với con người và sự vật, và phải có trách nhiệm với từng câu chữ của mình trước khi phát tán”. Câu thơ khiến người đọc thấy se lòng và tôi lại nhớ đến những câu thơ của Lưu Trong Lư:

“Tôi thấy tôi thương những con tàu

Ngàn đời không đủ sức đi mau

Có chi vương vấn trong hơi máy

Mấy chiếc toa đầu nặng khổ đau”

                                     (vu vơ)

    Lưu Trọng Lư thương những con tàu hay thương người đi xa, và vương vấn hơi máy hay vấn vương tình thương trước cảnh chia ly.   Khi mùa Đông đã hiện hữu thì cảm xúc càng trở nên dào dạt và ào ạt như tuôn chảy, càng nhớ tới người thân nơi mênh mông biển đảo. Câu thơ rất giản dị mang hơi thở của tình yêu đôi lứa nhưng cảm xúc lại mang đầy tính tư tưởng, khiến người đọc muốn gần gũi nhau hơn, yêu đất nước hơn:

“Dạo đường Thanh Niên em quấn thêm khăn cổ

Cái rét đầu mùa làm em nhớ đến anh

Quanh đống lửa xòe tay tìm hơi ấm

Nơi đảo xa anh có nhớ đất Hà thành”

     Đường Thanh Niên là xứ xở của tình yêu, là nơi trai gái hẹn hò. Với cái rét đầu mùa khiến nỗi nhớ trong lòng người con gái càng thêm dâng trào. Bởi đây chính là tình yêu đích thực, Họ lo lắng cho nhau, trách nhiệm với nhau, thương nhau. Người đời cho rẳng: “Yêu thì phải nhớ, nhớ nhung là biểu cảm của tình yêu”. Ở đây những chất xúc tác diệu kỳ nên nỗi nhớ càng thêm da diết “Quanh đống lửa xòe tay tìm hơi ấm”. Câu thơ rất thật như câu nói thường ngày, nhưng đầy tính ước lệ. Lẽ đương nhiên sưởi lửa thì chỉ để tìm hơi ấm. Nhưng người con gái kia tìm hơi ấm của lửa hay tìm hơi ấm của tình yêu. Câu thơ thật thi vị, dung dị mà ngọt ngào. “Nơi đảo xa anh có nhơ đất Hà thành” Một câu hỏi tu từ được bung ra làm câu kết của khổ thơ, rất thật mà ảo. Anh có nhớ đất Hà Nội hay anh đã quên em, câu thơ như hờn như giận, lại như nũng nịu với người mình yêu. giọng thơ đầy nữ tính. Nhưng lại như lời nhắc nhở khéo léo và như văng vẳng câu nói của anh trước lúc lên đường rằng em yêu ơi! Hãy yên lòng, vì từ xưa đến nay những chàng trai Hà Nội bao giờ cũng nhớ đến người thương như nhà thơ Quang Dũng đã nói hộ:“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (Tây tiến)                        

   Thi phẩm “Hà Nội vào Đông” của Nghiêm Thản còn mang theo cái nhìn tinh tế, rất riêng của người Hà Nội mà ít các đô thị, các địa phương khác có được là “Thú ăn quà” đêm, nắm lạc rang, bánh đa, ngô nướng không phải cho no bụng mà cho thơm miệng:

        “Góc phố nhỏ thoảng đưa mùi ngô nướng

         Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay

         Gói lạc rang trong lòng tay âm ấm

         Anh có về tìm lại chút men say”.

    Đó là cái nét rất riêng, rất thanh lịch, rất đẹp của người Tràng an, của người Hà Nội. Từ mùi lạc rang ngô nướng tác giả đã khẳng định đó là “Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay” như để giới thiệu với mọi người một nét văn hóa của người Hà Nội. Cuối khổ thơ Nghiêm Thản lại đặt ra câu hỏi nữa “Anh có về tìm lại chút men say”, nếu như câu hỏi trên “Anh có nhớ”thì ở đây “Anh có về” điệp khúc này không chỉ để nhấn mạnh thêm cái khao khát, nỗi nhớ của người đang yêu, mà còn tăng tiến lên để “tìm chút men say”. Câu thơ mang nhiều tầng ý nghĩa, đa chiều đa dạng, vừa là tìm cái gì rất thân quen của người Hà Nội vừa là tìm cái hương vị say đắm của tình yêu dù chỉ một “chút” thôi, cũng đã đong đầy hạnh phúc, cũng đã say rồi.

     Bài thơ như câu chuyện tình thật đẹp có nhân vật anh và em nhưng lại không phải là câu chuyện mà chỉ là những tâm sự của một cô gái đất Hà thành làm hậu phương cho các chiến sĩ nơi địa đầu Tổ quốc. Đến khổ cuối cùng cô gái mới bọc bạch tâm trạng của mình:

            “Hà Nội vào Đông không anh em buồn lắm

Hàng liễu bên hồ vẫn buông thả mành xanh

Em chờ anh - em chờ hơi ấm

Anh chậm về em sợ cạn mùa Đông”.

     Chỉ với cụm từ “không anh em buồn lắm” cũng đã nói lên tình cảm dành cho người thương như thế nào. Mùa Đông và cảnh vật Hà Nội vẫn còn đó “Liễu vẫn buông mành xanh” để làm duyên bên hồ mà thiếu vắng anh vì vậy “buồn lắm” là điều dễ hiểu. Nỗi nhớ nỗi buồn bỗng cất lên thành tiếng lòng khắc khoải “em chờ anh - em chờ hơi ấm” điệp ngữ “em chờ” như tiếng đàn réo rắt, anh và hơi ấm còn đồng nhất với nhau qua ký tự gạch nối (-), đó còn là sự biểu hiện khát khao cháy bỏng trong lòng. Câu kết đột ngột chuyển hướng bằng lời lo lắng “Anh chậm về em sợ cạn mùa Đông”. Giai điệu càng nữ tính hơn, thỏ thẻ, thủ thỉ tâm tình  phải chăng người con gái sợ chàng trai về muộn sẽ cạn đi cái thi vị tình yêu đôi lứa của mùa Đông. Dù sao đây cũng là cái khao khát và lời nhắn nhủ của tiếng lòng đến với tiếng lòng nơi biên cương hải đảo. Câu thơ mang đầy tính tích cực của tình yêu.

   Tình yêu vốn có cung bậc và tần số riêng. Thi Phẩm “Hà Nội vào Đông” cũng giao thoa trên tần số đó. Mặc dù tác giả nói đến nỗi nhớ nhung, nỗi buồn, sự chờ đợi, lòng mong mỏi… nhưng không hề bi lụy. Trái lại rất lạc quan như một động lực để các chiến sĩ yên tâm có một niềm tin nơi hậu phương vững chắc. Hạnh phúc sẽ dâng tràn.

                                                   

                                                    Hà Nội 2.2012

                                                Nhà thơ: Xuân Hiến