PHẦN 1
thơ
MÊNH MANG SUỐI MỠ
Anh đi trong mênh mang
suối Mỡ
Núi rừng trùng điệp mà
ngỡ trong mơ
Cánh bướm dập dờn gợi
thương gợi nhớ
Thác Thùm Thùm, chậm đến
để em chờ.
Ngày mở hội ba đền
Trung, Hạ, Thượng
Ta lại tìm về, đi lễ cầu
may
Tay trong tay dập dìu
nghe suối chảy
Bắc Giang ơi! Sao quên
được nơi này.
Món “chính cầy” chưa
bao giờ là giả
Tỏa mùi hương ẩm thực
núi rừng
Chỉ một lần không bao
giờ quên được
Nói gì đi. Sao em cứ ngập
ngừng.
Đừng vội về cho anh ghi
lưu niệm
Muốn cùng em tắm nước
suối đầu nguồn
Đất Nghĩa Phương như
níu lòng du khách
Trời vô tình bất chợt đổ
mưa tuôn.
Bắc Giang 2015
Thật lòng anh rất yêu em
Nhưng vẫn sợ như mình mắc tội
Vẫn biết tình yêu không có lỗi
Sợ chẳng bao giờ đến được với nhau.
Vẫn biết mạng đang thông suốt hai đầu
Gọi cho nhau mà như người vụng trộm
Nhắn tin ư? Sợ em quên không xóa
Đành lặng câm - mình là kẻ thứ ba.
Anh rất yêu nhưng chẳng dám nói ra
Bởi anh nghĩ có cái gì chưa ổn
Em thương tổn, lòng xáo xáo trộn
Chỉ muốn ôm em chia sẻ vơi đầy.
Em đừng hỏi, anh như mắc bùa vây
Hoa Tigon vỡ tung ra thành ba mảnh
Phải ruộng đâu mà chia bờ, chia khoảnh
Thương em nhiều sợ em mãi cô đơn.
Anh vẫn lo em giận em hờn
Đành cứ thế… không thể nào nói được
Vẫn biết mình có bao điều ước
Trước tình yêu sao khổ thế em ơi!
(Tặng
Thanh Xuân)
Nhìn em niệm Phật di đà
Mắt đăm đăm dõi Phật bà quán âm
Lòng thành em đã có tâm
Nét duyên còn mãi, xanh mầm chồi Xuân.
Nửa đời ta mãi tìm nhau
Nửa đời chia sẻ nỗi đau nửa đời
Em như chim lạc chơi vơi
Anh như ngọn gió lưng trời tìm em.
(Tặng Nữ sĩ Hồ Tịnh Văn)
Dù phải mượn kiếp sau
anh vẫn đợi
Ánh mắt buồn làm xiêu
ngả lòng anh
Nụ hôn dài và bao nhiêu
điều ước
Chỉ tiếc hai ta mộng
không thành.
Áo dài em rực lên màu
Hoàng hậu
Gợi lại trong anh kỷ niệm
ban đầu
Tình mình như Ngưu Lang
Chức Nữ
Tìm đâu ra chim Ô Thước
bắc cầu!
Thương em nhiều, mà
sông Ngân rộng quá
Ngược tháng năm tìm đến
tuổi học trò
Áo trắng tinh khôi, bao
điều tiếc nuối
Số phận đẩy đưa anh nào
chút đắn đo.
Núi Hồng Lĩnh vẫn tươi
mầu hoa cỏ
Sao em không về tìm lại
kỷ niệm xưa?
Mừng cho em nhiều điều
thành đạt
Anh yêu em, mà như kẻ lọc
lừa.
Anh
thích nhìn mặt em khi xấu nhất
Để sau đấy là những nụ cười duyên
Mình đã đi qua mọi miền xao xuyến
Để có cơ duyên neo bến đậu thuyền.
Anh muốn ngắm em khi vừa ngủ dậy
Nét đẹp trắng trong, chân chất đậm đà
Không lụa là, không màu son phấn
Em vẫn là em trong ngàn vạn bông hoa.
Quà cho anh là nụ hôn dài âu yếm
Vòng tay mình ghì chặt lấy thời gian
Tan vào nhau qua từng hơi thở
Để những vần thơ cứ mãi dâng tràn.
Anh thích đọc những vần thơ mộc mạc
Không mỹ từ, không bóng bẩy xa hoa
Được viết ra từ ruột gan máu thịt
Đi vào lòng người như chính bản thân ta.
Điều anh thích là những điều chân chất
Vẫn sợ mất đi cái gốc ban đầu
Xã hội văn minh muôn màu muôn sắc
Giữ được niềm tin, hạnh phúc sẽ lâu bền .
Anh đến đón em như đã hứa
Không ngờ trời lại đổ cơn mưa
Điện thoại hai đầu dây tắc nghẽn
Chỉ thấy tin nhắn lúc nửa đêm.
Anh thất vọng quay đầu xe lầm lũi
Mặc cho trời xối xả mưa tuôn
Mặc cho gió lật tung mũ áo
Chỉ thấy bao nhiêu những nỗi buồn.
Ngấm nước mưa hay lòng người ngấm lạnh
Đang chạnh lòng, điện thoại đổ chuông reo
Anh mới biết được, em tăng huyết áp
Thật trớ trêu cho tình cảnh ngặt nghèo.
Thế là em lại phải vào nằm viện
Cơn sốt lòng - anh như một người điên
Bao dự định bây giờ tiêu tan cả
Lo cho em lòng dạ chẳng được yên.
Đành chấp nhận, em cũng đâu muốn thế
Giờ chỉ mong cho cơn bệnh mau lành
Chẳng ai muốn cuộc đời dâu bể
Không tệ lắm - hiểm nghèo đã qua nhanh.
Đừng nghĩ nhiều đã có anh bên cạnh
Ngoài kia trời vẫn rất trong xanh
Hãy an tâm chữa cho mau lành bệnh
Em có nghe tiếng chim hót trên cành.
Tôi cố quên nhưng không
sao quên được
Bởi những giọt tình đã
lọt vào tim
Gần như chung vách, mà
ngàn trùng xa cách
Đêm lang thang trong phố
cổ im lìm…
Tôi tìm cái bồng bềnh
hư ảo
Lẩn vào mây, Tam Đảo ấp
tay nhau
Kể nhau nghe những vết
đau thành sẹo
Ơi! Tình yêu, sao lắm sắc
nhiệm màu.
Tự do yêu mà sao vẫn sợ
Vẫn cầu thần linh, yêu
trọn kiếp trọn đời
Đừng bao giờ hai đứa
mình dang dở
Mấy ai đã đi, đến đỉnh
của tuyệt vời.
Nói cố quên sao còn tìm
ký ức
Những kỷ niệm xưa, đâu
dễ phai mờ
Nhắm mắt ngủ, sao vẫn
còn thao thức
Tôi cố quên, ai đó vẫn
trong mơ.
ĐỜI THƠM
Đàn bà nông nổi giận hờn
Đàn ông
xảo quyệt chập chờn bóng ma
Thích hoa thơm, giả mặn mà
Muôn đời
vẫn thế người ta thường tình.
Khen cho hương sắc hoa quỳnh
Nở đêm để
lánh rập rình bướm ong
Nước trong nên giữ cho trong
Đáy lòng
còn có cặn lòng nhớp nhơ.
Gái ngoan biết giữ bến bờ
Chim khôn
chẳng đậu vật vờ cành cao
Sắc phai nhạt - vẫn hoa đào
Đời thơm
- phụ nữ ngọt ngào chồng con.
Lưng xanh yếm thắm là đây
Tình yêu quan họ đong đầy khát khao
Khẩu trầu cánh phượng mời chào
Không ăn không lỡ, ăn vào đắng môi!
Tưởng rằng trời tãi ánh vàng
Nắng còn non lắm lại quàng sợi mưa
Nàng Bân đan áo xong chưa?
Đêm mà trở gió, rét thừa tháng Ba.
Yêu như công chúa Mỵ Châu
Đẹp thì rất đẹp nỗi sầu
can qua!
Liền anh liền chị đâu xa
Dứt tình đôi lứa để mà
giao duyên.
Bồng bềnh quan họ dưới thuyền
Dùng dằng, rưng rức những
miền yêu thương
Ra về còn lắm vấn vương
Lời thề đã hứa đến
sương mái đầu.
Lơ thơ vẫn nước sông Cầu
Quan họ đứt ruột từng
câu ru tình
Hai mình mà vẫn một mình
Liền
anh liền chị - cây quỳnh cành giao
Mùa covid làm người
đang yêu sốt ruột
Nhớ lắm! Bờ Hồ mỗi lúc
anh qua
Phố bích hoạ Phùng
Hưng đường như ngắn lại
Chẳng muốn về khi nhìn
chị bán hoa.
Đường Quán Thánh quán
cà phê quen thuộc
Nay có im lìm cửa đóng
cài then?
Và trái mùa nên không
tìm đâu hương hoa sữa
Chiều đi bộ mình chẳng
được dắt tay nhau.
Đường Thanh Niên lại
gần khu Trúc Bạch
Chẳng được hôn em lúc
tóc xoã nghiêng đầu
Con covid làm hai ta
cách biệt
Giờ cách ly như chia
cách chúng mình.
Hãy chờ anh chờ khi
tan dịch
Anh lại về ôn lại kỷ
niệm xưa
Hãy chờ anh em ơi! Khi
hoàn thành nhiệm vụ
Anh sẽ về hai đứa lại
bên nhau.
Vừa đen vừa mượt như tơ
Điểm vài
sợi bạc, khép hờ tuổi Xuân
Bới tìm nhổ những gian truân
Giúp em
trẻ lại, bớt phần phôi phai
Ngắm
em từ trước tới sau
Kiêu sa, quyến rũ, một màu nõn non
Ước gì tới được Sài Gòn
Một lần gặp mặt, vuông tròn tùy em.
Đời em như thể thân cau
Mo già tách bẹ, nõn màu cau non
Xa nhau nhớ đến mỏi mòn
Mình yêu màu tím là còn yêu nhau
Đêm nghe con cuốc cuốc kêu khan
Lẫn tiếng đàn bầu khúc nhặt khoan
Đây chốn quê người bao vất vả
Ở nhà đất mẹ bấy gian nan
Thương thương nhớ nhớ mòn con mắt
Đợi đợi chờ chờ lệ chứa chan
Anh cố níu thời gian lùi ngắn lại
Hai ta hạnh phúc lại dâng tràn.
Với em anh không hề thêu dệt
Em đẹp mỹ miều, hoa cũng muốn ghen
Khi còn trẻ anh vẫn hằng mơ ước
Có được bông hoa, nép dưới bóng anh.
Em có nhớ không, trên đồi sim tím
Em lấy lá, anh chặt nứa làm lều
Anh là học trò, em làm cô giáo
Cả một buổi chiều, em chỉ giảng chữ yêu.
Anh ôm ấp bóng hình em từ ấy
Dưới sân trường, em mặc áo vàng tươi
Em đứng đó như chờ như đợi
Đăm đắm nhìn về phía xa xăm.
Thơ em viết gửi miền thương nhớ
Những buồn vui, lúc tuổi còn thơ…
Và ngay cả bây giờ cũng vậy
Tình yêu ngập tràn, đầy những ước mơ.
Gió đã heo may, nhưng
chưa là muộn
Có cuộc tình nào định
trước được đâu
Sông càng sâu, lại càng
trong nước
Trước tình yêu, sao khó
nói nên câu.
Chim muốn bay cao, sao
mây cản lối?
Cá muốn lặn sâu, nước đục
vô tình!
Đây vách núi cao, kia
là dòng xoáy
Em giữ trắng trong như
đóa hoa quỳnh.
Trời đã bình minh sao
còn bối rối
Chỉ sợ hai người chẳng
chịu hiểu nhau
Trầu mà nhạt vôi, má hường
kém đỏ
Nhặt câu thơ rơi, xin
ghép lại thành cầu.
Đàn bầu ai gảy, lúc
khoan lúc nhặt?
Cánh cửa nhà bên sao cứ
khép hờ?
Chăn gối lệch xô, bao
điều trăn trở
Bù đắp cho nhau vẫn chỉ
là mơ!
Dòng nước vẫn sợ đôi bờ
hiện hữu
Bên lở chẳng đau, khi
bên ấy được bồi
Lúc êm ả, khi trào dâng
sóng cuộn
Cầu đã bắc qua, mà bờ
mãi song đôi
Anh chưa về được em ơi!
Cách ly covid là nơi
dân cần
Cũng là trách nhiệm quân nhân
Cũng là vì nước vì dân
anh làm.
Cũng là hồn của nước Nam
Gian nguy đến mấy cũng
cam đồng lòng
Nước đục thì gạn cho trong
Anh đây cũng nhớ cũng
mong được về.
Để cùng thả gót triền đê
Để cùng hát khúc tình
quê ngọt ngào
Để cùng mơ mộng đếm sao
Để còn toan tính ngày
nào đính hôn.
Khi con tàu rời khỏi sân ga
Chở đi bao nhiêu bàn tay vẫy
Miền xao xuyến trong tim thức dậy
Những bùi ngùi, lưu luyến lúc chia tay.
Chiếc lá bàng bay theo gió chiều nay
Màu tím đỏ chìm dần vào nỗi nhớ
Duyên hay nợ? Nợ duyên, duyên nợ…
Chợ đã chiều, mà vẫn muốn người đông.
Hoa cải đang mùa em có nhớ không?
Trang thơ viết một bóng hồng thơ dại
Em cứ đi, đi em không ngoảnh lại?
Anh vẫn thương cây cải sớm trổ ngồng.
Bình dẫu đẹp, bỏ không buồn lắm!
Anh vẽ lên tường hoa trổ đôi bông
Và thấy nhụy tỏa hương thơm mát
Hoa tím đỏ, như màu áo ấy anh yêu.
Sao mình vội trách người ta vô cớ?
Đi đâu xa chẳng nhớ tới anh
Sáng trăng suông luôn là nhạt nhẽo
Thấy trái thơm sao cứ muốn vin cành?
Sao mình không vui, khi người ta hạnh
phúc?
Bên chồng con và những người thân
Lâu lắm rồi nay mới về họp mặt
Chấp nhặt vu vơ, trách con tạo xoay vần.
Điện thoại cầm tay sao không bấm máy?
Nhớ cháy ruột gan, sao chẳng chịu nhắn
tin
Mình là gì đâu! Lại chờ người ta gọi
Biết dằn lòng như thế vẫn là hơn.
Sao không tự hỏi lòng: Mình là ai nhỉ?
Chưa đủ tài sao muốn vượt Vũ Môn
Chôn một mối tình không bao giờ dễ
Điệp Lan ơi! Sao lòng dạ bồn chồn?
Sao đến với tình yêu lúc nào anh cũng
vội?
Cả khi đi đường, và mỗi bữa anh ăn
Hay anh thương em một mình ngồi ngủ
Lạnh bờ vai dù thừa gối, thừa chăn.
Anh nói yêu em ngàn lần như chưa nói
Gói lại tình yêu khi gặp gỡ mang về
Để ấp ủ, để thương, để nhớ
Nơi bình yên, thơ anh viết không đề.
Anh đừng nói nữa những lời âu yếm
Chỉ làm khổ nhau bởi sợ sóng ngầm
Dứt bỏ được đâu dù cau già trầu úa
Em yêu anh nhiều, mà vẫn lặng câm.
Anh đừng vội thế, dù em chờ em đợi
Rất nóng lòng nghe điệp khúc tình ca
Để sưởi ấm trái tim hồng se lạnh
Em vẫn chờ anh kể chuyện những ngày qua.
Xuân về Tết đến mọi nhà
Người ta đi với người
ta lễ chùa
Yêu nhau mà cứ như đùa
Xa nhau nhung nhớ như
thua thất tình.
Vẫn thơm như thể hoa quỳnh
Vẫn trong trắng ngọc,
vẫn bình pha lê
Vẫn
chân chất gốc nhà quê
Sao tâm vẫn cứ mẩn mê
phải lòng.
Xin ai gỡ mối bòng bong
Cho hoa khoe nhụy cho
ong lại gần
Có duyên mà chẳng có phần
Đò rời xa bến chậm
chân mất rồi.
Người ta đi lễ có đôi
Nhâm nhi chén đắng vẫn
tôi một mình.
Mùng 2 Tết Ất Mùi.
UỐNG NỮA ĐI
Thế là héo lá diêu bông
Chúc ai hạnh phúc bên
chồng bên con
Chỉ thương lối cũ đã mòn
Chỉ thương bờ dậu
không còn nở hoa.
Người ta còn nhớ người ta
Người ta hẫng hụt, vào
ra đứng ngồi
Mừng ai đũa đã có đôi
Thương ai lăn lóc bình
vôi xó nhà.
Mong cho màu tím hoa cà
Cứ tươi cứ thẫm mặn mà
thủy chung
Gió hoang rú rít đùng đùng
Luồn qua khe liếp lạnh
lùng cô đơn.
Mưa dầm lối cũ đường trơn
Còn đâu, đâu nữa dập
dờn bướm bay
Uống đi cho hết cơn say
Cuộc đời là những trả
vay khóc cười.
Con
ơi! Nhớ lấy điều này
Sống không tích lũy có ngày chết oan
Làm mà chẳng chịu lo toan
Đến khi thất vận lại bàn đi vay.
Bây giờ thất nghiệp trắng tay
Cách ly, giãn cách cả ngày lẫn đêm
Cộng dồn ca mắc tăng thêm
Nhiều người hết gạo đói mềm bụng ra.
Biết bao giờ dịch tan qua
Để đi làm việc để mà sinh nhai
Bây giờ kể cả người tài
Cũng ngồi một chỗ một hai đợi chờ.
Đâu ngờ rồi lại đâu ngờ!
Tiền khô cháy túi bây giờ trách ai!
Cách ly chẳng được ra ngoài
Miệng ăn núi lở tính hoài chi con!
8.2021.
“Qua sông thì phải lụy đò”
Vì yêu nên lụy… bởi lo
một mình
Vào hang Cắc Cớ lạy trình
Cầu thần linh độ cho
mình yêu nhau.
Không có rượu, chẳng có cau
Tình yêu hơn cả Thị Màu
đòi yêu
Không như Kim Trọng Thúy Kiều
Liều yêu nên phải nhiều
điều lụy nhau.
Trắng trong tinh khiết hoa quỳnh
Mất em từ độ chúng mình lạc nhau
Bây giờ thu đượm
sương đầu
Mà sao em vẫn một màu nõn xanh.
Giá như chung lối
cùng anh
Chẳng bao giờ lạc, để thành chia hai!
Hoa nào rồi cũng tàn phai
Cái thời Xuân sắc có dài mãi đâu!
Nõn
non, non nõn thắm màu
Mọc bên bờ giậu cho ngâu nó vày.
Cuộc đời vay trả, trả vay
Hay đâu kiếp trước, kiếp này đa đoan?
Tiếc thời tuổi vẫn còn xoan
Sa đâu ấm đấy, gái ngoan cũng đành.
Chẳng Sở Khanh, cũng vin cành
Không Thúc Sinh, cũng hóa thành người dưng
Hoa thơm dập nát nửa chừng
Ngậm bồ hòn đắng, vẫn rưng rưng cười.
Trước nhà vẫn sắc hoa tươi
Một đời hoa - một đời người buồn tênh
Ai làm ngọn sóng cong vênh
Để con thuyền nhỏ bồng bềnh biển khơi.
Hai Ba Tết khấn đất Trời
Ông Công, ông Táo tới nơi Thiên đình
Xin ngài kể hết sự tình
Trời thương, Trời để cho mình được yêu.
Ngày
23 Tết Đinh Dậu
Anh buồn chẳng kém em đâu
Tìm ai chia sẻ ruột dầu như dưa
Trời đang nắng, bỗng đổ mưa
Cả đời gánh chụi, có chừa tôi đâu!
Ra đường tươi sắc nhuận màu
Về nhà toàn thấy những câu nói thừa
Người tham biết mấy cho vừa
Đầy ninh ních túi vẫn chưa vừa lòng.
Rối như canh hẹ, bòng bong
Vẫn tìm cách gỡ cho xong mọi bề
Hở môi răng lạnh người chê
Vẫn đành cam chịu giữ nề cho con.
Em buồn lỡ bước tuổi son
Người buồn đứt gánh mỏi mòn khôn nguôi
Mái chẳng thuận, nước chẳng xuôi
Anh buồn dao sắc mà chuôi người cầm.
Hoa sen thơm bởi bùn đầm
Sao cú cứ thích hồng ngâm để vày
Có ai hiểu được buồn này
Mỗi người một nỗi, níu
ngày sang đêm.
Anh muốn là chiếc gối
ôm
Cho em bình yên giấc ngủ
Anh sợ mưa rừng bão lũ
Lạc em rồi… sẽ mất em.
Mở bộ sưu tập ra xem
Biết tìm đâu người tri
kỷ
Đây vẫn chiếc giường cũ
kỹ
Đêm tan dần…tan dần… đêm.
Người ta chăn ấm nệm êm
Thương em một mình vò
võ
Đêm càng sâu, trăng
càng tỏ
Tiếng côn trùng rả rích
rên.
Nỗi đau em mãi chẳng
quên
Là họa sĩ anh sẽ vẽ
Đôi chim câu không đơn
lẻ
Chiếc
gối hồng, để em ôm.
Nhiều đất người thưa với
núi sông
Chim bay mỏi cánh rộng
mênh mông
Ở đây Phố Núi anh buồn
lắm!
Nơi ấy Hà Thành em nhớ
không?
Chẳng biết bao giờ được
gặp lại
Chỉ thấy trong mơ có
bóng hồng
Suốt ngày nương rãy ngô
khoai sắn
Vẫn ước em vui vẻ với chồng.
Lành lạnh đêm Thu dưới tán cây
Bao nhiêu tâm sự muốn phơi bầy
Mười năm biền biệt bao khao khát
Một phút gần nhau đong khó đày
Đâu phải trái tim là gỗ đá
Chi bằng lòng dạ gửi trăng mây
Một ngày cũng nên tình nên nghĩa
Cho thỏa những ngày khắp đó đây.
Bài thơ em chẳng đặt tên
Những thương những nhớ khó quên nhau rồi
Ý thơ viết, đúng quá thôi
Cùng chung một vách bồi hồi nhớ nhau,
Đâu phải thẳng mới là cau
Đường cong tuyệt mỹ - sắc màu dễ yêu
Gặp em khi sớm khi chiều
Đêm về lại nhớ mơ nhiều về em.
Gió lùa lạnh buốt như kem
Li cà phê nóng, sau rèm đắng nhau.
Cách
ly Covid có buồn không?
Ra
ngóng vào trông nhớ bóng hồng
Thơ
viết xong rồi không bạn đọc
Văn
hay chữ tốt chẳng ai trông
Áo
khăn vừa sắm không buồn mặc
Quần
ngắn cũ rồi chả bỏ không
Biết
đến bao giờ tan dịch dã
Cùng
nhau hội tụ chúc men nồng.
Tháng 4.2020
Ta
đến với nhau
từ
những gì đồng điệu
Ta
sẵn bằng lòng vì có tri thức tình yêu.
Đến
với nhau từ những gì hấp dẫn
Kính
trọng nhau thấy trí tuệ hơn người
Rất
ngưỡng mộ khi tâm hồn rộng mở
Thể
xác ư? Đã hấp dẫn
ai
không ham muốn khát thèm
Tất
cả... tất cả để có được tình yêu.
Đến
với nhau
một
ngày cũng nên nghĩa
Dứt
bỏ không đành, vẫn ngại đa đoan
Nỗi
niềm đầy trăn trở...
Có
những điều cố giấu làm ngơ!
Mối
tình đẹp là tình tri kỷ
Xin
được ghép vần để giải mã tình yêu.
Một người đi với một người
Hai
người dung dẻ dạo chơi ngắm hàng
Một người tặng đóa hồng vàng
Một
người đón nhận nhẹ nhàng nâng niu.
Mơn man gió mát hiu hiu
Đôi
chim câu trắng dập dìu tầng không
Đất trời Tam Đảo mênh mông
Chợt
mưa chợt nắng cầu vồng hoá đôi.
Trong phòng chỉ một riêng tôi
Cô
đơn không sợ mồ côi một mình
Ngoài kia sương khói rập rình
Tôi
cùng cái bóng vô tình thành đôi.
Cuộc đời em sao gặp nhiều
tổn thất
Cứ mất đi bao thứ em cần
Tình cha mẹ là bờ vai lớn
nhất
Đã không còn từ lúc chập
chững bước chân.
Tài sản chồng chiếc ba
lô đầy trăng gió
Ai biết đâu lúc vò võ
đêm trường
Chưa đổ vỡ mà tinh thần
sụp đổ
Gia đình là một mái ấm
tình thương.
Em cam chịu mất những
gì em mất
Để giữ lại những cái có
cần hơn
Nhưng đời đâu cho em
suôn sẻ
Giằng xé em - giông bão
nổi từng cơn.
Đã cạn thu rồi sao còn
nhiều lá rụng
Mất một đứa con như chiếc
lá lìa cành
Những tổn thất lại chồng
lên tổn thất
Cơm dẻo đấy mà sao chẳng
ngọt canh.
Sự mất còn như một điều
vô lý
Quỷ dữ không bắt đi những
kẻ bất tài
Người nhân đức lại coi
là xấu số
Tổn thất này sao mãi chẳng
nguôi ngoai.
Cho anh chia sẻ để mùa
thu chín lựng
Hãy chăm sóc cho cây nhỏ
thêm xanh
Tấm lòng anh chỉ những
lời tri kỷ
Cái lạnh qua đi, hoa
trái lại trĩu cành.
Sao em còn lưu luyến
mãi tháng ba
Hay vẫn tiếc rét nàng
Bân se lạnh
Hoa xoan tím đã thôi hạ
cánh
Hoa gạo nghén thai đang
đợi rắc tơ trời.
Hương bưởi đâu rồi để nỗi
nhớ chơi vơi
Tinh khiết loa kèn -
hoa trắng trong rực rỡ
Sao tình yêu cứ như người
mắc nợ
Mồng một tháng tư, anh
chẳng nói dối bao giờ.
Trăng huyền ảo như thực
như mơ
Đom đóm dong chơi lập
lòe thắp lửa
Lúa ấp đòng đòng đang
mùa dạ chửa
Đợi sấm về, hẹn mùa gặt
bội thu.
Bụi tre cựa mình kẽo kẹt
gió ru
Anh lại nhớ giọng ầu ơ
của mẹ
Chùm hoa lựu đung đưa
nhè nhẹ
Con cuốc cuốc kêu, da
diết gọi hè.
Lanh lảnh tiếng chim -
giọng hót chích chòe
Cây sấu già đang vào
mùa thay áo
Nắng mới bừng lên, trẻ
nô đùa bên xóm đạo
Ngày cá tháng tư muốn
nói dối không thành.
Đất Nam Ngạn một thời anh gắn bó
Ao thả cá từ những hố bom thù
Cầu Hàm Rồng vẫn hiên ngang sừng sững
Núi Ngọc thân thương cây mọc đã nên rừng.
Nơi em đứng hoa bằng lăng rực rỡ
Ngày chống Mỹ mù mịt những khói bom
Đường sắt bật lên vặn quăn như vỏ đỗ
Nay đã thành xứ sở của tình yêu.
Em cười tươi như hoa nở trên môi
Anh lại nhớ o dân quân vui rạng rỡ
Khi máy bay rơi làm núi đồi sạt lở
Nam Ngạn ơi! Đây mảnh đất kiên cường.
Nam Ngạn Hàm Rồng
28.5.2017
Đêm
nghe con cuốc cuốc kêu khan
Lẫn
tiếng đàn bầu khúc nhặt khoan
Đây
chốn quê người bao vất vả
Ở
nhà đất mẹ bấy gian nan
Thương
thương nhớ nhớ mòn con mắt
Đợi
đợi chờ chờ lệ chứa chan
Mình
cố mong cho nhanh hết dịch
Hai
ta hạnh phúc lại dâng tràn.
28.8.2021
Áo em trắng mỏng mắt
anh mờ
Từ ấy anh về cứ mộng mơ
Tuổi ngoại sáu mươi hồn
vẫn trẻ
Xuân xanh mơn mởn đáng
tôn thờ
Tiếc mình thai nghén nhầm
năm tháng
Lưu luyến ấp iu cũng phải
ngơ
Gặp em cứ ngỡ như trong
mộng
Kiêu sa kiều diễm đến
không ngờ.
Khoảng cách vũ trụ là hằng hà sa số
Gần hơn nữa là hậu duệ của các hành tinh
Cả thế giới gần nhau mà xa lắm
Tính bằng dặm đường lại rất gần nhau.
Càng thấy đau, lại càng xa cách
Một vách ngăn còn xa cách ngàn trùng
Cùng lý tưởng là gần nhau hơn cả
Muốn gần nhau cần tìm những điểm chung.
Với cha mẹ tưởng chừng như gần gũi
nhưng vẫn cần một khoảng cách riêng
Hoa muốn nở, người trồng không cho nở
sao giữ được hương thơm khi ép đợi đúng
ngày.
Anh em ruột không có gì là khóhiểu
nhưng vẫn quên nước lã với máu đào
bởi bản năng luôn tính điều hơn thiệt
Lúc sóng to mới thấy biển ồn ào.
Với tình yêu lại càng cần khoảng cách
Hai tâm hồn dù hòa quyện vào nhau
Có nỗi buồn nào bằng chia tay đôi ngả
bởi hai người chưa giữ được khoảng cách
cho nhau…
Biết kính trọng nhau, đó chính là khoảng
cách
Vật thể, hay con người đều có cái riêng
là hoa lá cỏ cây, còn muôn màu muôn sắc
khoảng cách ngắn dần, là rất dễ xa nhau.
.
Đi nửa cuộc đời tôi chửa
biết yêu
Nếu được yêu, tôi sẽ viết
thơ tình để tặng
Xuân xốn xang mà lòng
tôi yên lặng
Vẳng vẳng đâu đây khúc
nhạc trầm buồn.
Bay thấp bay cao, mỏng
mảnh cánh chuồn
Mười hai bến nước biết
bến nào neo đậu
Thân dây leo đành tìm
nơi bờ dậu
Vẫn hy vọng rằng bám được
cây cao.
Ngoài kia xuân chạm lá
lao xao
Cái rất riêng chỉ một
mình anh nhớ
Có phải yêu lần đầu hay
lỡ dở?
Tôi tự hỏi mình, hình
như đã biết yêu.
Trời se lạnh ngắm cảnh
xuân chiều
Muốn chấp bút viết vần
thơ tặng bạn
Chọn ngôn từ chứa chan
tình lãng mạn
Không được rồi! Mình là
kẻ đến sau.
Sao tình yêu đầy những
nỗi đau
Vẫn chạm mặt nhau mà
cách xa vời vợi
Mong có kiếp sau để tôi
chờ tôi đợi
Giờ
xin tặng em những mảnh thơ tình!
Đất nước mình chưa bao
giờ khổ thế này!
Không chiến tranh mà
người tử vong hàng loạt
Người thân mất đi
không người tiễn biệt
Có
nghèo đâu mà sao phải tiêu dè xẻn từng đồng!
Có gia đình mà không nơi cư trú
Thèm quê hương mà không phương tiện trở về
Sức khỏe đầy mình mà không nơi làm việc
Đành bộ hành rủ nhau về quê mẹ thân thương.
Dân nước mình đã ngàn lần chạy loạn
Bồng bế nhau mang vác gánh gồng
Người thành phố đã bao lần tản cư sơ tán
Nhưng chưa bao giờ nhếch nhác thế này đây!
Mẹ Tổ quốc đang thật đau lòng!
Nhìn thấy những đứa con mình quằn quại
Trong chiến tranh còn bài binh bố trận
Giặc cô-vi! Luôn biến thể tàng hình.
Nước có giặc mọi người đi giết giặc
Truyền thống ngàn năm chẳng tiếc máu xương
Nay có dịch toàn dân dập dịch
Dân lo một hai chính phủ lo mười...
Hỡi đồng bào những người đang khốn khó
Ai không xót lòng trước những thương đau
Hãy gắng lên gồng mình chống đỡ
Cơn bão nào dữ dội mấy cũng tan mau.
Ngày 8.10.2021
Sống
ở đời ta vẫn sợ điều ngang trái
Không
thuận buồm mát mái khó thành công
Đã
coi là địch ta cần hiểu địch
Đất nước mình chưa một lần thua giặc ngoại xâm.
Ta
chống giặc không bao giờ sợ giặc
Với
bệnh dịch ư? Phải biết sợ kẻ tàng hình
Luôn
rình rập như kẻ thù đánh lén
Cảnh
giác cao, phòng chống vẫn hàng đầu.
Dịch
cô-vi một loài biến thể
Không
giống thương hàn, tả lỵ đậu mùa...
Gây
tử vong cao toàn cầu khiếp sợ
Dập
dịch an toàn cần ý thức của dân.
Khi
mắc bệnh là ta bắt đầu lâm trận
Rất
khó khăn khi sức khỏe cạn dần
Máy
móc, kháng sinh như đồng minh trợ giúp
Thày
thuốc cao tay mới thắng được kẻ tử thần.
Ngày 10.8.202
Thu
cạn rồi tưởng như Thu chưa đến
Đêm
sụt sùi không ngủ trắng khăn tang
Trời
chẳng quang, mây quầng đen u ám
Loãng
bóng người đi nhờn nhợt ánh trăng vàng.
Bao
kỷ niệm cứ ùa về mùa Thu trước
Rất
dịu dàng se lạnh chút heo may
Tay
trong tay lá vàng cùng dạo bước
Đường
Phan Đình Phùng nồng nhẹ men say.
Sẽ
có một ngày không còn giãn cách
Trời
lại trong xanh, điểm vài áng mây hồng
Hoa
lại nở bung trong những ngày sinh nhật
Thu
cùng Thu chơi trò con trẻ kéo mo cau.
Có
phải không? Rồi một ngày Thu khát
Thu
mang ngọt ngào trái ngọt hiến dâng
Để
rồi Thu lại ủ Thu đến chín
Thu
ấp Thu đến xao xuyến mọi miền.
Ngày 03.9.2021
Xưa anh là lính đi B*
Thương
thương nhớ nhớ thư về cho em
Trong rừng anh chẳng có tem
Gửi
người ra Bắc anh kèm tấm khăn.
Đêm nằm mưa rét thiếu chăn
Ngày
nghe đạn réo lương ăn cạn dần
Vẫn phải bám chốt giữ chân
Không
cho quân giặc tới gần quân ta.
Bây giờ dịch dã xót xa
Em
là bác sĩ cũng là quân nhân
Lao vào vùng dịch cứu dân
Cận
kề cái chết không ngần ngại chi.
Dịch tràn khổ nhất ngành y
Em
ơi! Gắng chịu cũng vì nhân dân
Gian truân mình chỉ một phần
Thương
người chạy dịch bước chân yếu mềm.
Mong sao vùng dịch đừng thêm
Để
dân lại sống êm đềm như xưa
Cách ly, giãn cách, phòng ngừa
Vẫn
còn covid em chưa chịu về.
Ngày 20.8.2021
_______________
*Đi
vào Nam chiến đấu chống Mỹ cứu nước
(Tặng các chiến sĩ công an quận Bắc Từ Liêm
HN)
Bao giờ covid hết mùa
Không
gian ghì chặt thơ đùa gọi thơ
Bao giờ hết những giấc mơ
Yếm
đào nối nhịp đôi bờ gần nhau.
Buồn trông đường phố rầu rầu
Tháng
Bảy chẳng thấy mưa ngâu sụt sùi
Không người qua lại tới lui
Anh
ơi! Em sợ niềm vui không tròn!
Cách ly giãn cách mỏi mòn
Lo
ăn đã vậy các con học hành...
Thương người chiến sĩ áo xanh
Cận
kề bệnh dịch tạo thành vành đai.
Tây Tựu, Thượng Cát, Minh Khai...
Giao
thông huyết mạch không ai được vào
Vùng xanh các chốt chắn rào
Công
an cán bộ ngọt ngào thương dân.
Chính phủ với Đảng đang cần
Lực
lượng cảnh sát góp phần ngày đêm
Đừng cho ca mắc tăng thêm
Mọi
người lại sống ấm êm an lành.
Ngày 19.8.2021
(Tặng các chiến sĩ công an Bắc Từ Liêm HN)
Ngày
xưa đất nước chiến tranh
Trai
Từ Liêm lính tung hoành dọc ngang
Bây
giờ đất nước sang trang
Lại
gặp covid lây loang mọi miền.
Công
an chiến sĩ trung kiên
Chuyển
ngành xung trận giữ yên an lành
Khoanh
vùng giữ chốt “vùng xanh”
“Vùng
đỏ” nguy hiểm có anh lặng thầm.
Chống
dịch như giặc ngoại xâm
Thương
dân giãn cách hoá lâm cảnh nghèo
Bao
người gặp cảnh gieo neo
Đêm
Thu lành lạnh gió heo chạnh lòng.
Lòng
anh như mớ bòng bong
Việc
nhà việc nước chưa xong rối bời
Nỗi
lòng chia sẻ đầy vơi
Mong
sao đất nước mãi vời vợi xanh.
Ngày
17.8.2021
Từ quê ra phố bán hàng
Thuê nhà mở tiệm đàng hoàng như ai
Bây giờ cửa đóng then cài
Chỉ sợ giãn cách kéo dài thời gian.
Bao nhiêu vốn liếng tiêu tan
Đến khi hết dịch ngồi than khóc thầm
Làm ăn hoảng nhất tiền âm
Rồi ra vỡ nợ tĩnh tâm sao đành.
Chỉ mưu sinh cũng chẳng thành
Nói chi con cái học hành ra sao!
Là người đứng mũi chịu sào
Đảm đang cũng chịu lao đao chuyến
này.
Ở đời chớ vội nói hay
Thất cơ lỡ vận tiền bay đằng tiền
Làm gì cũng phải có duyên
Vài lần giãn cách buồn phiền phải
cam!
4.8.2021
Bây giờ lục bát lạ chưa
Xuống
dòng tuỳ tiện ngắt bừa vụn ra
“Trăm năm trong cõi người ta”
Truyện
Kiều cũng vậy thì ra thế nào!
Những câu lục bát ngọt ngào
Từ
ngàn năm đã đi vào dân ca
Từ khi chữ viết chưa ra
Đã
có lục bát ngân nga ru hời.
Bây giờ lục bát người ơi!
Câu
lục làm kết chơi vơi thế nào
Thêm câu bát nữa thì sao
Đủ
cặp ta thấy ngọt ngào dễ nghe.
Câu thơ cho đến ca vè
Đã
là lục bát đừng đè cách tân
Bài thơ vụn vặt lạc vần
Đọc
như bị vấp ra phần nhỏ nhen.
Ngày 05.8.202
(Tặng nhà thơ Phạm Miện)
“Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất
nông nhì sĩ”*
Ngày xưa “nhất sĩ nhì nông”
Ô
tô xe máy chạy rông đầy đường
Bây giờ nghỉ việc không lương
Nhà
quê “sĩ tướng” bốn phương tìm về.
Ngày xưa rượu ngoại cà phê
Có
người đưa đón khi về lúc đi
Bây giờ đóng cửa công ty
Hết
công hết việc “sĩ nhì, nhất nông”.
Vườn cây ao cá rau trồng
Không
mua không bán cũng không thiếu thừa
Chẳng giàu sang cũng vừa vừa
Đủ
ăn đủ uống sớm trưa tối ngày.
Từ ngày giãn cách đến nay
Không
ra khỏi ngõ không vay không đòi
Cũng là một tấm gương soi
“Nhất
nông nhì sĩ” chuột voi khó lường.
Ngày xưa áo vá nón mê
Dãi
dầu mưa nắng không chê quê nghèo
Chăn trâu, cắt cỏ, băm bèo
Nuôi
gà, nuôi vịt, nuôi heo chẳng nề.
Ngày thường còn nhớ đến quê
Bây
giờ giãn cách biết về làm sao!
Đất dày ơi! Hỡi trời cao!
Người
thân lỡ mất như bào ruột gan.
Cách ly chống dịch tràn lan
Con
không về được muôn vàn xót xa
Mùa dịch năm ngoái giỗ cha
Con
đành bất hiếu từ xa vái về.
Rạ rơm vấn vít nhà quê
Con
đò bến nước triền đê ao đình
Tha hương là những nhục vinh
Bây
giờ dịch dã thương mình xa quê.
4.8.2021
Vợ chồng tình nghĩa bấy nay
Bây giờ sao thấy đắng cay muôn phần
Chẳng chia tay
vẫn ngại ngần
Biết đâu tiếp xúc mây lần Fo.
Ngoài kia nhộn
nhạo cộng đồng
Đã tiêm hai mũi tương không nhiễm gì
Vài ngày y tế
gọi đi
Cô - vi dương tính
bởi vì chủ quan.
Bây giờ dịch dã
tràn lan
Đừng cho là đã bị oan ra đường
Bình thường mới
chẳng bình thường
Phòng riêng mỗi đưa một giường là hơn.
Thôi đành đừng
giận đừng hờn
Biến chủng coovid chập chờn bóng ma
Bao giờ dịch dã
can qua
Bình thường như trước thì ta chung phòng
Một tư duy
một ngôn từ, một câu thơ, một lời văn
Một nét cọ trên bức tranh sắp vẽ
Một âm thanh trong bản nhạc vừa cảm xúc
Một công trình xây dựng nguy nga.
Một chiếc cầu nhỏ bắc qua sông
Một nếp nhà đơn sơ bé nhỏ
Một vườn hoa
Những đồ dùng tập thể
Một vật dụng cá nhân.
Một cô vợ dại
Một gã chồng khờ
Một cuộc đời khốn khó
Một xã hội đầy những chật chội bon chen…
Tất cả
Tất cả
Tất cả đều muốn mới
Hoa trong bình cũ muốn bỏ đi
Một năm đầy rủi ro hờn tủi
Tất cả đều muốn đổi thay.
Chúc mừng năm mới
Riêng coovid – 19
và tình yêu xin đừng bao giờ mới
Để hạnh phúc quanh ta thật hạnh phúc
chan hòa
Nhàn
nhạt nghĩa là chưa hẳn nhạt
Vẫn
đâu đây còn chút mặn mòi
Không
dứt vì chẳng có lý do gì để dứt
Kệ
thế thôi chẳng thiếu cũng không thừa.
Nếu
cảm thấy thừa thừa một chút
Nghĩa
là có cũng chẳng sao
Tất
cả mọi thứ đã trở nên nhàn nhạt
Chưa
giống bức tường bạc phếch như vôi.
Thời
gian cứ lặng lẽ trôi
Tất
cả như chẳng có gì giàng buộc
Cứ
âm thầm chìm vào quá khứ
Nhàn
nhạt phai chỉ thiếu chút mặn mà!
Vì
dịch dã chẳng được gặp nhau
Lúc
mới đầu sao nhớ nhau đến thế
Như
con chim chỉ muốn sổ lồng
Nhạt
dần, nhạt dần tất cả như không.
Tin
covid giờ cũng không nóng hổi
F1,
F0 lẫn lộn đầy đường
Ca
mắc vẫn tăng ít người để ý
Vì
đã nhạt rồi cũng đỡ tang thương.
Tết
năm nay có cái gì nhàn nhạt
Người
bán người mua thấp thoáng chợ hoa
Ai
cũng chỉ săm sanh vừa đủ
Chẳng
tính đi đâu khách sẽ bớt đến nhà.
Đã
nhàn nhạt cũng chẳng cần hâm nóng
Sâu
sắc chi đâu khi đã thấy đủ rồi
Cứ
lặng im không lời tri kỷ
Sợ
nhạt hẳn rồi dễ quên hết kỷ niệm xưa.
Ngày 27. Tết Nhâm Dần
28.01.2022
Phố! Cả ngày lẫn đêm im bặt
Không nghe thấy tiếng xe đi
Cũng chẳng có tiếng người
Tiếng nhạc loa đài càng không có
Chỉ thấy xe chở rác lục cục tiếng thùng.
Bữa ăn đạm bạc
Vài ngày lại khẩu trang kính chắn
âm thầm lặng lẽ ra chốt gửi mua rau
Cửa sổ mọi nhà cũng không ai dám mở
bởi quanh nhà mình toàn những Fo.
Đang giấc ngủ giật mình thức giấc
Lại xe cứu thương còi rú vào phường
Không biết nhà ai lại thêm ca nhiễm mới!
Nỗi lo âu phấp phỏng, sợ cháu con mình.
Trời đất ơi! Bao giờ cho hết dịch
Phong tỏa thế này có khác tù giam
Lại còn lo sau khi mở chốt
Liệu có an lành để kiếm kế sinh nhai.
Phú Đô 25.11.2021
Ngoài hiên tí
tách mưa rơi
Ai chờ ai đợi, ai vời vợi xa
Gió lay tàu
chuối sau nhà
Luồn qua song cửa, lạnh va vào lòng.
Mưa bong bóng,
mưa phập phồng
Chồng thì vẫn đấy, mà không có chồng
Có người tìm lá
“diêu bông”
Tìm làm chi nữa viển vông đợi chờ!
Tình yêu sao đẹp
như mơ
Biết là không thể, vẫn chờ vẫn mong
Búi tơ hồng - mớ bòng bong
Trời cao cao quá, vít cong sợi tình.
Thương em rồi
lại thương mình
Vẫn mơ như được cây quỳnh cành giao
Cô-vi như bức
tường cao
Muốn sang không dám xé rào để sang!
28.10.2021
PHẦN
2
LỜI
BÌNH
SỰ SỐNG ĐƯỢC HỒI SINH TRONG THƠ THÚY QUYÊN QUA THI PHẨM “THƠ
VIẾT CHO MÌNH”
Đã từ lâu lâu lắm
Em chẳng nghĩ đến ai
Vì em sợ ngày mai
Đời còn nhiều gian dối…
Một chiều thu anh tới
Cho em niềm tin yêu
Em thấy mình trẻ lại
Nhớ về anh rất nhiều.
Em đón nhận tình yêu
Dù chẳng có bao nhiêu
Chút tình chiều chợt thức
Sưởi ấm hồn cô liêu.
Sớm chiều em mong ngóng
Đợi anh đếm từng giây
Dâng tặng anh tất cả
Men tình ta cùng say.
Ta có nhau từ đấy
Quên cả tháng năm xưa
Quên hết niềm đau cũ
Nhớ chi ngày gió mưa.
Hết rồi chiều bơ vơ
Để em lại làm thơ
Kể chuyện tình muôn thuở
Đẹp như một giấc mơ.
5.2020 - Thúy Quyên
Lời bình: Của Nghiêm
Thản
Đơn côi là sự lẻ loi đơn chiếc
không mong muốn cho tất các loài sinh vật. Với các loài thực vật cỏ cây hoa lá
vô chi vô giác nhưng chúng có một thứ tình cảm vô hình chúng ta không thể nhìn
thấy được, những hiện tượng cụ thể xảy ra hàng ngày cho ta thấy hình như chúng
cũng có sự suy nghĩ. Hầu như các loài cây đều tự vươn mình tìm nơi ánh sáng,
coi ánh sáng là bầu bạn tri âm để quang hợp. Có loài cây thân leo yếu ớt thì
tìm đến những cây cao bóng cả để leo lên tựa vào nhau mà sinh sống. Có loài cần
sự che chở của bóng rợp tán lá. Một cây tre già tưởng như đã sắp lụi tàn vẫn
trồi ra một cái măng non để sinh tồn nòi giống. Tất cả chúng muốn thành bụi
thành lũy thành rừng để chống chọi với phong ba bão lũ. Với các loài động vật
chúng luôn sống thành bầy đàn để bảo vệ cho nhau. Chúng cũng có đôi có lứa,
sinh con đẻ cái, chúng cũng biết âu yếm
nhau. Còn con người thì sao? Có lẽ sự cô đơn là kẻ thù số một. Khi con người bị
rơi vào hoàn cảnh cô đơn họ sẽ khổ đau, dằn vặt, tâm can bị giằng xé, héo mòn
cả phần hồn lẫn phần xác. Họ muốn thoát ra khỏi bốn bức tường lạnh lẽo, họ khát
khao muốn giang rộng cánh để bay, để tìm một khoảng trời mới cho riêng mình.
Bài thơ “Thơ viết cho mình” của nữ
nhà thơ Thúy Quyên đã minh chứng cho điều đó. Một sự sống được hồi sinh
trở lại khi tình yêu đến
Ngay khổ đầu tiên, câu thơ đầu tiên nữ sĩ Thúy
Quyên viết với giọng tự sự, lời thơ chân thực mộc mạc “Đã từ lâu lâu lắm / Em chẳng nghĩ đến ai” nhưng lại rất ảo, bởi tác
giả không hề nói đến tình cảm của quá khứ, ngoài từ “gian dối”, mà tác giả cũng chuyển tải được sự cô đơn lạnh lẽo, gần
như tuyệt vọng… Qua điệp từ “lâu lâu”
tác giả đã dựng lại một sự cô đơn kéo dài dằng dặc làm cho người phụ nữ đa sầu
đa cảm héo hon đến mòn mỏi vì cuộc đời gặp nhiều ngang trái, và chị sợ một ngày
mai “Đời còn nhiều gian dối…” Với dấu
chấm lửng (…) người đọc cũng rất thông cảm và chia sẻ với người phụ nữ đã từng khổ đau quá nhiều rồi. đây cũng
là cách dùng thán từ đúng câu đúng chỗ của Thúy Quyên. Cũng vẫn giọng tự sự
theo chiều mặt phẳng dễ hiểu bên trong lại chứa đựng một hàm xúc khát khao Thúy
Quyên chị viết:
“Một chiều thu anh tới
Cho em niềm tin yêu
Em thấy mình trẻ lại
Nhớ về anh rất nhiều”.
Đọc tiếp 2 khổ thơ sau người đọc
ngỡ là một tình yêu sét đánh, nhưng không, đây là sự khát khao, sự ham muốn
tình yêu của người phụ nữ đến cháy bỏng đã ấp ủ từ lâu. Cũng giống như PusKin
viết “Anh yêu em âm thầm không hy vọng /
Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”. Và như nhà thơ NT viết về sự khát khao
tình yêu của những người lính biển:
“Gom hết lửa để đốt cháy tình yêu
Sống giữa đại dương mà ta vẫn khát”
Quả thật hơi ấm của tình yêu thật mãnh
liệt nó mang lại sự sống cho con người: “Cho
em niềm tin yêu / Em thấy mình trẻ lại” Những người cảm nhận được tình yêu,
đang yêu họ sẽ có nhiều niềm tin, tự tin hơn, yêu đời hơn, thấy cuộc đời ý
nghĩa hơn và quỹ thời gian của họ sẽ được kéo dài hơn. Đọc câu thơ cuối khổ thứ
2 “Nhớ về anh rất nhiều” ta mới thấy
thấm thía những lời yêu của ông cha ta là “phải
lòng” nhau. Từ yêu nhau đến “phải
lòng” nhau là một thời gian là một khoảng cách mà nhiều người không thấy
được. Hai người yêu nhau, có khi chỉ một người “phải lòng” vì người ấy luôn nhớ đến người mình yêu, trong ăn trong
ngủ trong mơ đều thấy hình bóng của nhau, yêu đến si mê khờ dại, muốn hiến dâng
tất cả để hai tâm hồn hai thể xác được trộn vào nhau. Nếu không gặp nhau họ như
không thể chịu được, đó là “phải lòng mặt”
Tình yêu thật diệu kỳ nó muôn sắc muôn màu, lời thơ cứ tưng tửng giãi bày tình
cảm của mình:
“Sớm chiều em mong ngóng
Đợi anh đếm từng giây
Dâng tặng anh tất cả
Men tình ta cùng say.”
Trong tình yêu thật nhiều sắc thái.
Tình yêu đơn phương, một tình yêu chỉ đơn lẻ một mình, không được đón nhận sự
ưu ái ngọt ngào chiều chuộng của người mình yêu, thật đau khổ vẫn đành cam
chịu. Tình yêu giả dối một thứ tình yêu không thể bền lâu bởi đó chỉ là những
thủ đoạn, những âm mưu, những toan tính để hoặc chiếm đoạt thể xác hoặc cơ hội
chiếm đoạt tài sản, hoặc lợi dụng nhiều điều, lừa lọc rồi làm tan nát trái tim
người yêu mình. Vậy đâu mới là đỉnh cao của tình yêu? Hôn nhân ư? Sự thỏa mãn
về thể xác ư? Không phải! Có những cặp tình yêu họ đến với nhau, trao tình cảm
cho nhau chỉ vì nể nhau, những cặp vợ chồng vẫn sinh con đẻ cái đấy thôi, họ
vẫn thương nhau, có trách nhiệm làm vợ làm chồng, nhưng chưa chắc họ đã có tình
yêu. Vậy tình yêu là gì? Tình yêu phải có sự đồng cảm với nhau, phải có tri
thức về tình yêu, phải biết thông cảm tha thứ cho nhau, hiểu nhau nhiều hơn và
sâu sắc hơn. Phải biết kính trọng nhau, tôn trọng nhau chưa bao giờ đủ. “Đợi anh đếm từng giây / Dâng tặng anh tất cả”.
Ở đây ta bắt gặp từ “đếm” mà lại đếm
từng giây ta mới thấy cách dùng từ của tác giả “đếm từng giây” chứ không phải đến từng giây. Rõ ràng Thuý quyên đã
biết chọn lựa từ để đẩy tứ thơ lên đến cao trào để diễn đạt biểu cảm tình cảm
của người đã phải lòng cao hơn hẳn khi mới yêu và đang yêu. Sự nhớ nhung, chờ
đợi, sự khát khao của tình yêu lên đến tột đỉnh của tình yêu. Đây mới là tình
yêu đích thực, mới là đỉnh cao của tình yêu, đó là sự “sẵn sàng” dâng tặng nhau, trao thân gửi phận cho nhau. Nếu không có
sự sẵn sàng hy sinh cho nhau che chở cho nhau chưa có thể gọi là đỉnh cao của
tình yêu. Câu thơ thể hiện một tình yêu cháy bỏng mạnh mẽ nhưng lại vừa là câu
lý giải cho câu hỏi “Thế nào là tình yêu
và đâu là đỉnh cao của tình yêu” càng ngẫm nghĩ ta càng thấy thú vị. Trong
tình yêu ít người viết mạnh mẽ như Thuý Quyên. Cũng để thể hiện một tình yêu
mãnh liệt nhà thơ Lê Nghiêm chỉ viết:
“Truyện trong phim là
ngoài đời có thật
Anh hứng mũi tên cho em được sống
Thế mới biết tình yêu vô cùng mãnh liệt
Em hạnh phúc rồi còn có nhớ tới anh!”
Hơi thở của tình yêu
như có phép nhiệm màu họ quên đi tất cả những khổ đau những dằn vặt, những vết
sẹo tưởng như không bao giờ xóa nổi: “Ta
có nhau từ đấy/ Quên cả tháng năm xưa / Quên hết niềm đau cũ / Nhớ chi ngày gió
mưa”. Thế là họ đã tìm đến một chân trời mới, một khoảng trời riêng cho
mình, họ thấy hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, tự tin hơn, trẻ đẹp hơn, cuộc đời như
được sang trang mới:
“Hết rồi chiều bơ vơ
Để em lại làm thơ
Kể chuyện tình muôn thuở
Đẹp như một giấc mơ”
Bài thơ được nhà thơ
Thúy Quyên viết theo thể ngũ ngôn được cắt thành 6 khổ giàu nhạc điệu, lời thơ
da diết yêu thương, nồng nàn, tự sự mà không kể lể, thể hiện một tình tình yêu
cháy bỏng mặn nồng cùng sự khao khát, ham muốn một tình yêu đích thực của người
phụ nữ mà bấy lâu nay vẫn âm thầm giấu kín phải sống trong đau khổ dằn vặt
giằng xé tâm can tưởng như không còn một tia hy vọng. Khi tình yêu đến tất cả
như được hồi sinh trở lại, như chim được sổ lồng soải cánh bay tung trời. Bài
thơ kết có hậu như nhắc nhở mọi người hãy biết giữ gìn những gì ta đã và đang
có đừng để tuột khỏi tay, hãy chung thủy yêu nhau hơn, tôn trọng nhau hơn, kính
trọng nhau hơn. Nhiều người viết thơ về tình yêu các bài thường na ná giống
nhau, cho nên dù viết nghìn bài vẫn chỉ là một bài. Ở đây Thúy Quyên viết có cá
tính riêng, một tình yêu ngọt ngào nhưng rất
mạnh mẽ, dù chị viết về chị hay chị viết cho một người khác cũng là tiếng nói
chung cho những người đau khổ về tình và sự khao khát một tình yêu đích. Những
người đang yêu họ thấy cuộc sống ý nghĩa hơn, họ thấy tất cả cái gì cũng đẹp.
Đây cũng là một thành công trong sự nghiệp văn chương của chị. Xin chúc mừng
chị! Chúng tôi hy vọng sẽ được thưởng thức nhiều thi phẩm hay.
05.7.2020 - Nghiêm
Thản
“GIỌT
ĐẮNG” Là tập thơ thứ 6 của Việt Hồng. Đây là những trang nhật ký vô
cùng sống động ghi lại bằng thơ, anh viết ra từ máu thịt của mình. Anh chia sẻ
những buồn vui, những mất mát của cuộc đời, những đầy vơi, chát chúa của anh và
những người xung quanh anh, của gia đình và xã hội… Bên cạnh đó anh ca ngợi non
sông đất nước, quê hương, bè bạn, tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa…
Bước chân anh – dấu chân người lính, và cũng là bước chân lãng tử phiêu
du của một văn nghệ sĩ, anh đặt chân trên khắp mọi miền Tổ quốc. Khi tới hang
Cắc Cớ anh viết :“Gặp nhau hang Cắc Cớ này/ Sáng Xuân trời rắc mưa đầy tiết
xuân”(Gặp nhau ). Lễ hội chùa Thầy vào tiết tháng ba, hương xuân còn đang
phơi phới, anh đã chớp lại được hình ảnh thật đẹp, và cũng thật kì ngộ, anh gặp
bạn lại đúng nơi hang Cắc Cớ, nơi truyền thuyết cho rằng đây là xứ sở của tình
yêu. Đến hồ Phan Thiết tỉnh Tuyên Quang cũng vậy:“Hồ Phan Thiết chiều về đầy
nắng/ Như trăng non ôm lấy vạt rừng/Nhà bảo tàng chứng nhân lịch sử/
Đứng bên hồ trầm tĩnh với thời gian”(Bên hồ Phan Thiết). Thời gian
đi qua là thước đo lịch sử, những dấu tích còn lại là những minh chứng. Hồ Phan
Thiết với con mắt nghệ thuật của nhà thơ Việt Hồng đẹp
như mảnh trăng non ôm lấy vạt rừng, Thành Tuyên đã ghi lại một thời oanh liệt
chống Pháp, thì cột cờ tại cố đô Huế cũng là những minh chứng cho triều Nguyễn
một thời: “Cột cờ đã mấy trăm năm/ Chứng minh hưng phế thăng
trầm đời vua” (Cột cờ).“Tham quan khách nghĩ đủ điều/ Ghét yêu
đem thả tím chiều sông Hương”(Hoàng Thành Huế ). Những ai được may mắn
một lần đến Huế đều khắc vào hồn mình cảnh đẹp mộng mơ tím chiều mờ ảo của sông
Hương núi Ngự. Đi sâu hơn nữa tới thành phố Đà Nẵng anh lại bắt gặp cảnh đẹp
nên thơ của sông Hàn, nhưng cũng không thể không ngậm ngùi xót xa khi nhớ tới
đồng đội của mình, bao người đã ngã xuống nhuộm đỏ khúc sông này:“Nhạc reo
sóng nước dập dình/ Nhớ bao đồng đội hy sinh nơi này/ Thả đèn cầu phúc cầu may/
Rưng rưng lại nhớ những ngày nổi trôi/ Lặng nhìn bóng nước xa xôi/Vài
giây mặc niệm đứng ngồi bên anh”. (Bên sông Hàn). Là người lính ai
không đau lòng khi đồng đội của mình ngã xuống, nhà thơ Việt Hồng trước
cảnh đẹp của một khu du lịch, mà anh rưng rưng nước mắt nhớ lại những ngày
chiến đấu căng thẳng để giữ lấy từng mảnh đất, gian khổ sống chết có nhau. Cũng
như nhà thơ Trương Nam Hương khi nhớ đồng đội anh viết:
“Máu người
thấm đỏ rừng xanh
Trường Sơn mây trắng mát
lành vẫn bay
Cho tôi
thắp trái tim này
Thay nhang cháy đỏ những
ngày nhớ nhau”
(Nhớ đồng đội)
Người
lính cụ Hồ là vậy, Việt Hồng là vậy. trong chiến tranh hay lúc
đời thường thơ anh vẫn cho ta thấy sức vươn trong cuộc sống:“Thỉnh thoảng
mèo kêu nghe não ruột/ Nhiều khi chuột chạy thấy nhàu gan/Ngẫm suy cho
kỹ đời cua cáy/ Tự lực vươn lên có phúc phần”(Vươn lên). Tự lực vươn
lên, cũng như tích đức lũy nhân, không phải để riêng cho mình mà để cho muôn
đời con cháu mai sau. Thơ của Việt Hồng đầy tính lạc quan “Tà
áo trắng như những làn mây trắng/Dệt thành thơ cây lá rộn tiếng chim/ Anh
mang về tặng em đôi ngọc/ Cả đời anh đồng đội kiếm tìm”.(Đôi ngọc).
Đôi ngọc chính là đôi mắt, khi tuổi đã về già, hay bị ảnh hưởng của chiến
tranh, tưởng như đã cướp đi đôi mắt. Nhưng với trình độ khoa học hiện đại bây
giờ cùng các y bác sĩ bệnh viện 354 bộ quốc phòng đã trả lại cho anh đôi mắt
ngọc. Mắt anh lại sáng, anh lại đi, anh lại viết. Anh viết cho quê hương:“Chợ
quê họp giữa làng quê/ Mái lều tranh với câu thề kết duyên/ Chẳng
cần hẹn vẫn cứ lên/ Tình làng nghĩa xóm khắc lên tranh này”(Tranh
quê). Cái thú vị nhất ở chợ quê, mà có lẽ chỉ có chợ quê mới có những bức tranh
Đông Hồ, tranh dân gian. Tranh vẽ về quê thật đẹp, hay thơ anh đã dệt nên những
bức tranh quê thấm đẫm tình người, tình quê là vậy tình người là vậy:“Đi xa
theo mãi mầu quê ấy/ Lắng đọng trong con tiếng sáo diều”(Mầu quê).
Là người Việt Nam ai cũng vậy, dù quê mình nghèo khó đến đâu, khi xa quê sống
nơi cao sang quyền quý, hưởng cao lương mĩ vị, nhưng vẫn không thể quên được
nơi chôn nhau cắt rốn của mình, bởi nơi ấy mang đầy kỉ niệm của tuổi thơ, mang
đầy cái chất quê, cái chân chất , cái gốc của mỗi con người :
“Rượu trà
chưa uống đã tường
Dại
khôn cùng với tà dương vụng về
Xa
quê vẫn chất nhà quê
Chia
tay em. Bước nặng nề gió trăng”.
(Chia
tay)
Cái dại cái khôn, cái khéo léo và vụng về của mỗi con người đâu có thể định
liệu được cuộc đời. chính vì thế mà anh thấy đau đáu trong lòng khi thấy các hủ
tục còn sót lại trong xã hội như mỗi khi: “Bạn mời dự cưới con/ Thiếp chữ
vàng màu son/ Người lọng ô lễ hội/ Kẻ thiếp cầm bối rối”(Bối
rối). Anh bối rối, rất nhiều người bối rối khi nhận được lá thiếp mời hồng tươi
thật đẹp; có phải chăng đó là những lá “phiếu chi” khi đồng
lương còn ít ỏi. Thơ của Việt Hồng đã phản ánh được cái rất
thật của đời thường mà mọi người đang băn khoăn trăn trở. Cũng chính vì thế mà
anh càng thương vợ thương con hơn:
“Nội
trợ giúp em nhiều
Yêu chiều em hết mức
Anh người chồng đứng mực
Để
mọi người noi theo”
(Bài thơ tặng anh)
Việt Hồng viết bài “Bài thơ tặng anh”
nhân ngày 8-3 ngày quốc tế phụ nữ, dường như anh thấu hiểu được những thiệt
thòi, yếu đuối, mất mát của chị em phụ nữ, của riêng vợ anh. Nhưng với bạn hữu
cũng chẳng kém phần:“Đương mùa nắng hạ bỏng lưng/ Đạp xe thăm bạn đi
cùng nàng thơ/ Mát lòng một bát riêu cua/ Tặng cho tập sách hồn
xưa mất còn”(Thăm bạn). Nhà thơ chia sẻ cái mất còn của tình
bạn bao năm xa cách, anh mát lòng khi ăn bát riêu cua mang hương vị đồng quê
gió nội, hay anh mát lòng khi thấy hồn xưa vẫn còn. Anh thông cảm với bạn bè
bao năm tháng thăng trầm mưu sinh: “Chở đò đã bốn mươi năm/ Bão tố
thác ghềnh vẫn vững chân/ Gia giáo, nếp nhà, tâm sáng tỏa/ Nghĩa nhân,
phúc lộc, quí vô ngần” (Chở đò). Bạn bè là vậy, bạn anh là một nhà
giáo, anh tôn trọng người giáo viên như những người lái đò, chở khách qua sông,
dù gian nan vất vả mà vẫn có tấm lòng nghĩa nhân, có một gia đình gia giáo, nề
nếp. Khi tuổi đã xế chiều tâm hồn còn thanh thản không một chút vẩn đục:
“Về
hưu sống giữa quê nhà
Thanh thản
yên vui với tuổi già
Sáng ngắm
chim câu say luyện cánh
Chiều xem
cây cảnh mải đơm hoa”
(Thanh thản)
Trên đây là những dòng tâm tình, những “GIỌT ĐẮNG” của nhà thơ Việt
Hồng với đồng đội, anh em bè bạn, với bậc cao niên… Còn với tình yêu
đôi lứa dường như anh viết còn khiêm tốn hơn, nhưng khi đã đặt bút thì ngọt
ngào, đằm thắm thiết tha. Có lẽ anh còn luyến tiếc cái tuổi thanh xuân ngu ngơ,
khờ dại của mình:“Bất ngờ gặp cánh hoa tim/ Từ trong ánh mắt anh tìm ngẩn
ngơ/ Tìm về một thuở dại khờ/ Tìm trong những buổi mộng mơ tím
chiều”(Bất ngờ). Phải chăng một thuở dại khờ, và những buổi mộng mơ của thi
sĩ đã mất đi do cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. những tình cảm thân thương
ấy bây giờ anh dành cả cho bạn hữu, người thân, cho vợ, cho con, cho cháu:“Cháu
đi mẫu giáo về/ Thấy bà ngồi đầu ngõ/ Cùng với lọ dưa cà/ Cháu
nở nụ cười hoa/ Cháu yêu bà nhiều nhất” (cháu đi mẫu giáo về). Anh hài
lòng với những lời ngộ nghĩnh của cháu, anh vui chung cùng với gia đình khi đứa
cháu đích tôn ra đời:
“Hoa
đào còn nhớ hoa mai
Vườn xuân đơm lộc
trong ngoài vui chung”
(Vườn xuân đơm lộc)
Mùa xuân đến trăm hoa đua nở, vườn nhà ai hoa đào rực rỡ, thì vườn xuân nhà anh
mai vàng đơm lộc trổ bông. Những trang nhật ký bằng thơ của Việt Hồng thật
da diết mặn nồng, ta còn thấy cái nghẹn ngào chua xót cay đắng của một tâm hồn
thi sĩ khi hạnh phúc gia đình chưa trọn vẹn:“Mười năm dạy học xứ người/ Tự
nhiên con nói con cười đâu/ Mười năm con được làm dâu/Mẹ thày yêu quí
mong cầu vẹn đôi”.“Con giờ như thật như đùa/ Dậy học không được, chẳng
mua bán gì” (vườn xuân đơm lộc). Anh xót xa cho con dâu mình, đang là
một cô giáo dạy học cấp 3, mà bây giờ như ngây như dại. Phải chăng đây là gánh
nặng của cuộc đời anh, để anh viết nên những vần thơ ngậm ngùi ấy. Chưa đủ, anh
còn xót xa hơn khi viết những vần thơ để tìm con, (một đứa con gái đã bị bọn
buôn người bắt bán cho Trung Quốc), khi tìm được con, thì con lại ở một khoảng
trời xa lạ. Những dòng thơ viết cho con mà như dao cứa vào lòng:“Nghe con
nói, nghe con cười/ Thấy hình con giữa khoảng trời xa xôi/ Vui là
vui thế, thế thôi!/ Thày mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay/ Bờ sông
mưa bụi lắt lay/ Con cò chạm xuống rồi bay phương nào”(Nói với con).
Đây là những dòng tâm sự, những “GIỌT ĐẮNG” anh viết ra từ gan ruột của mình,
anh thổn thức bằng thơ, anh dửng dưng với những được thua, mất còn ở đời. Đêm
đêm anh nằm nghe đồng hồ tí tách đếm thời gian mà não lòng
não ruột, nước mắt anh rơi ướt thấm màn. Những vần thơ anh viết
thật cảm động, mủi lòng:“Con mình giờ tưởng con ai/ Cháu mình giờ của
người ngoài lạ chưa!” (Nói với con). Đọc thơ của Việt Hồng mà
tôi thấy chạnh lòng, muốn gần gũi anh hơn. Xin chia sẻ những đầy vơi với anh
cùng gia đình. Chúc gia đình hạnh phúc, chúc anh khỏe mạnh, vững vàng trong
cuộc sống, có nhiều cảm xúc hơn để các độc giả được đọc tiếp những vần thơ trữ
tình của anh. Xin mời độc giả tìm đón đọc
Ngày
24 - 6 - 2013
Nghiêm Thản
(Truyện ngắn của Minh Hiền)
Em í tên là Mây. Cái quần lửng bó
chặt đùi như hai cột đình, lòi ra đoạn chân ngắn tũn. Cái áo có vẻ rộng dài có
vẻ rộng dài lùng bùng trùm mông màu cháo lòng, sao ngày nào nó cũng giống nhau
thế. Nếu là tôi phải đánh số mới phân biệt được. Được cái hay cười, mái tóc
xanh đen như gỗ mun, lại còn buộc cong tớn lên như người chuẩn bị đi mổ lợn.
Khiếp! Người đâu mà cổ lỗ sĩ thế không biết. Ra Hà Nội có dễ phải trên dưới 20
năm mà chả thấy thay đổi gì. Em làm ô - sin cho người hàng xóm của tôi, ngoan
ngoãn thật thà nên được bà chủ yêu quí, thỉnh thoảng lại cho em bán hàng
đỡ bà. Đến bây giờ vẫn thuỷ chung với nghề, chẳng chịu về quê lấy chồng nữa
chứ.
Nhà bà chủ ở ngay mặt đường nhỏ, nên mở hàng cafe là thích hợp nhất. Phố yên
tĩnh mùa hè hàng cây bằng lăng hoa tím mát
rượi. Cũng không biết bà quê gốc ở đâu, nhưng khi tôi về đây đã thấy có nhà bà
ở đây rồi. Bà cao cao, hơi mập kể ra thì thân hình cũng cân đối. Dường như bà
bằng lòng với cái thân hình của mình. Thỉnh thoảng bà cũng cân chỉnh chế độ nọ
chế độ kia. Ôi giời! Gày được vài hôm thì béo bảy tháng. Bà hay nhìn xa xăm và
ngồi thừ ra khi vắng khách, rồi lại lạch xạch chiếc xe đạp đi mua cam chanh,
thuốc lá về bán. Bà bảo đi xe đạp là để tập thể dục cho khoẻ người. Sáng nào bà
cũng dậy sớm nấu cơm gạo lứt và thức ăn thực dưỡng cho ông nhà mang đến cơ quan
để ăn trưa.
Ông nhà cũng oách lắm. Phải cái hơi lùn, nghe đâu cũng chịu khó tập xà mà chẳng
khá lên được. Ông là giáo sư tiến sĩ gì gì, giảng dậy ở một trường đại học có
tiếng ở Hà Nội. Ông có chiếc xe bốn chỗ màu trắng tự lái lấy rất oai. Thường
thì chiều tối muộn ông mới về nhà. Mỗi khi về đến nhà, chỉ việc căn chỉnh cho
xe lên vỉa hè mà ông cứ loay hoay tiến lên lùi lại mãi. Một hôm ông đâm sầm vào
cây bằng lăng nghe rắc một cái, cây đổ xuống mặt đường làm tắc nghẽn giao thông
khoảng một giờ đồng hồ. Già rồi! Chân tay yếu ớt chậm chạp, mắt mũi kèm nhèm,
vẫn cố lái chỉ để giải quyết khâu “oai”.
Công việc cần mẫn với hàng quán khiến hàng xóm cũng mủi lòng. Lúc nào rảnh việc
bà lại dạy em ô - sin cách pha phách các món đồ uống mới. Giọng bà oang oang:
Xay - xong rồi - pha sữa - café… sau cùng mới cho đá - cắm thìa mới mang ra cho
khách.
Chậm chạp bê ra! Khách quen với điệu bộ này lắm rồi. Một ông khách nửa đùa nửa
thật:
- Ngày mai còn cho cô nhân viên
ục ịch này bán hàng là chúng tôi giải tán! Biết thế bà cười rất hiền đôn hậu và
việc ai người ấy làm như một guồng quay của xã hội. Lâu rồi cũng ổn ấy mà.
Thực ra bà rất bằng lòng với cô ô - sin của mình, tuy có xấu xấu một tí, chậm
chạp một tí nhưng được cái thật thà. Thi thoảng khách rơi tiền nhặt được còn
mang trả.
Hôm nay thật lạ bà đi chợ mua về một xâu bìm bịp đen xì. Chẳng biết nghe ai! Bà
bảo em ô - xin đổ rượu vào bình rồi thả từng con vào. Khiếp! Chẳng rửa ráy gì
cả, bọn bìm bịp sặc rượu giãy chết. Một lúc sau thấy chúng nằm im trong bình.
Một rổ giá đỗ thật to, rồi thịt bò, thịt dê bà dõng dạc nói:
- Hôm nay không ăn gạo lứt nữa, xào thịt dê sả ớt tý ông mang đi. Ông dạo này
ít nói, vẻ mặt như đang suy nghĩ điều gì bí ẩn. Ông hay đứng trước gương vuốt
tóc cười một mình. Vừa thấy bà lên ông nói:
- Xong chưa? Để tôi còn đi. Bà vội vàng hét toáng em ô - xin. Em í lại bảo
khách:
- Chú chờ cháu tý nha.
Cứ như thế hết tháng, hết năm, Tết này rồi
đến Tết khác bà thấy ông càng ngày càng kiệm lời, lại hay cáu bẳn. Lúc lên
giường, cái mền chăn mỏng ông quấn chặt lấy người, trời rét cũng như trời nóng.
Bà sợ ông ốm, thỉnh thoảng lại sờ trán xem ông có sốt không. Lạ thật vẫn béo
tốt. Sao thế nhỉ? Bà gỡ nhẹ chăn định nằm cùng ông cho tình cảm. Bận làm bận
ăn, cũng lâu lắm chẳng thấy ông hỏi han gì. Ông giật thót:
- Bà lạ nhỉ, tôi có sốt xiếc gì đâu, bà xê ra. Không chịu được, ồi dào!
Bao nhiêu tủi hờn trào ngược ra gối. Đêm không ngủ được, bà tìm cái điện thoại
của ông. À thôi! Mình có biết dùng cái điện thoại cứ gạch gạch, chấm chấm này
đâu. Khổ! Rồi bà lẩm bẩm… nhanh như có ai chỉ đường mách lối, bà lục tìm được cái hoá đơn thanh toán tiền điện
thoại có tới đến hai triệu đồng. Bà đọc rõ họ tên cô… Sâu trong ngăn cặp còn có
một sổ tiết kiệm và một sổ đỏ với giá trị cái nhà thật khủng cũng mang tên cô
ấy. Bà giật mình. Té ra những món ngon, những miếng thịt dê, những giá đỗ và
rượu bìm bịp… Bà chăm sóc cho ông phí công toi! Công dung ngôn hạnh ư? Hoá ra
thừa! Thì ra là những buổi ông vắng nhà không lý do gì đều có lý do cả. Thảo
nào! Có khi thậm chí gần cả tháng ông bảo phải đi công tác, phải tiếp khách ở
xa. Đêm đêm bà vẫn thấy ông ngủ cứ nghiến răng kèn kẹt, ú ớ lảm nhảm nhắc tên
cô ấy.
Bà thất vọng! Rồi thì bà cũng tìm được đến cái địa chỉ mà bà vô tình tìm thấy
khi ông chưa kịp mang đến cho người tình. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy một đứa
bé trai chừng 7 – 8 tuổi, lén nhìn thật lâu xem trên khuôn mặt nó có hình dáng
gì giống ông nhà không. Nhưng lẫn lộn cái nét mặt trẻ kia, đang ngồi kia chải
chuốt, phấn son loè loẹt trong ngôi nhà chồng mình sắm sửa. Bà chợt nghĩ ra…
thằng bé… rồi bà cũng nhờ người lấy được vật chứng thử ADN, và người ta đã trả
lời thằng bé cùng huyết thống.
Đang sắp chết chìm trong căn nhà khô khốc,
bà quờ tay ra sau lưng áo mình, mồ hôi có thể vắt ra thành nước. Bà buồn đến
cháy ruột, bà bảo em í đóng cửa sớm rồi đèo em í ra bãi sông Hồng. Bà lang
thang trong ruộng ngô thẳng tắp xanh rờn, đầy những bắp đang ngậm những chùm
râu dài thoảng thơm man mát. Gió sông se lạnh cảm giác bị bỏ rơi làm bà chững
lại, ngồi phệt xuống ruộng ngô hít thở cái mùi quen. Như nhớ ra điều gì bà nâng
niu một cây rau muối núp trong ruộng ngô, nó đang phủ lên mình một thứ phấn đẹp
lạ lùng. Nhớ ngày xưa trong ruộng ngô này, bà và ông có khác gì Chí Phèo Thị
Nở. Em í thấy vậy cũng buồn theo rồi buột hỏi:
- Chị ơi! Chị mất gì trong ruộng ngô đấy?
- Chị mất hết cả rồi! Những cây ngô này
đẹp đấy, bắp đều đấy. Rồi đến lúc họ sẽ chặt đi. Cái hoa đực sẽ tìm cái hoa cái
khác thụ phấn.
Bà gầy đi trông thấy, ít nói không đùa với
khách nữa, không hạch xách ngon hay không ngon khi em pha phách. Rồi chẳng rủ
em, một mình bà xuống bãi. Cái túi nhẹ tênh bên mình, bà lững thững đến gần mép
sông. Một đám bèo Tây tim tím đang trôi lững lờ, người ta còn gọi loại hoa này
là hoa lục bình. Bà giơ tay ra với cái màu tím của mình. Đất bờ sông mấy hôm
nay mưa nhiều, bên lở đang lở. Bà trượt chân và cuốn theo dòng nước trong chiều
hoàng hôn đệnh mệnh.
Minh
Hiền
Từ thuở hồng hoang, thời “mẫu hệ” người đàn bà có uy quyền. Trải
qua các thời kỳ tiến hóa của loài người từ 0.0 con người sống bầy đàn nguyên
thủy, đến 1.0 con người đã tìm ra được lửa, cho đến 2.0 con người sáng chế ra
động cơ hơi nước, rồi 3.0 con người lại phát minh ra động cơ điện, và bây giờ
là 4.0 thời kỳ công nghệ thông tin hiện đại. Cứ thế dần dần người đàn bà đã bị
thoái vị. Uy lực và quyền hành chuyển sang người đàn ông, đó là “mẫu hệ”. Và thân phận người đàn bà đuối
dần có khi trở nên bất hạnh.
Truyện ngắn “Ghi ở bãi giữa sông Hồng” của Minh Hiền đã ghi lại như một lát cắt
của xã hội. Một truyện ngắn viết theo một tư duy mới, như một hồi ký mà không
phải hồi ký, như tản văn mà không phải tản văn. Chỉ 3 nhân vật. nhân vật chính
không có tên, chỉ một nhân vật có tên lại là nhân vật phụ. Tác giả đã dựng lên
một bi kịch nhưng lại hé mở đến tương lai của thế hệ sau. Một tác phẩm đầy tính
tư tưởng viết về người phụ
nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương: "Đau đớn thay thân phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Câu thơ
của đại thi hào Nguyễn Du (Truyện Kiều) giống như một điệp khúc bi thảm. Chả thế
mà xưa chị em miền núi lại than rằng: "Thân
em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi
lại than mình như “con ong cái kiến”.
Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến
trong văn học Việt Nam, trong "Bánh
trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong “Truyền Kì mạn lục”, đặc biệt là trong “Độc Tiểu Thanh Ký” (Nguyễn Du), các đoạn trích “Chinh Phụ Ngâm” (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị
Điểm) và “Cung Oán Ngâm” (Nguyễn Gia
Thiều), nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn”
của Ngô Tất Tố, truyện ngắn “Thân phận
đàn bà” của Y Mùi…
Truyện ngắn “Ghi ở bãi giữa sông Hồng” được xây dựng nhân vật duy nhất chỉ em ô
- sin là có tên Mây. Một cái tên đầy nữ tính. Mây thì phải lang thang. Nhưng em
Mây lại không lang thang suốt trên dưới 20 năm vẫn trụ ở một quán café, không lấy
chồng. Cộng với cách tả một nhân vật: “Cái quần lửng bó chặt đùi như hai
cột đình, lòi ra đoạn chân ngắn tũn. Cái áo có vẻ rộng dài có vẻ rộng dài lùng
bùng trùm mông màu cháo lòng, sao ngày nào nó cũng giống nhau thế. Nếu là tôi
phải đánh số mới phân biệt được. Được cái hay cười, mái tóc xanh đen như gỗ
mun, lại còn buộc cong tớn lên như người chuẩn bị đi mổ lợn. Khiếp! Người đâu mà
cổ lỗ sĩ thế không biết. Ra Hà Nội có dễ phải trên dưới 20 năm mà chả thấy thay
đổi gì” cũng đã
nói được phần nào của nhân vật. Chứng
tỏ Minh Hiền muốn cho ta thấy một người đàn bà vụng về bất tài độ hiếm không
cao, năng lực kém cỏi thì số phận hèn muộn là thế. Những đức tính thật thà
ngoan ngoãn: “Bà rất bằng lòng với cô ô -
sin của mình, tuy có xấu xấu một tí, chậm chạp một tí nhưng được cái thật thà.
Thi thoảng khách rơi tiền nhặt được còn mang trả”, cũng không cứu được số phận một người đàn bà.
Trong truyện nhân vật chính là bà chủ quán
café, được Minh Hiền xây dựng là một người đàn bà: Bà cao cao, hơi mập kể ra thì thân hình cũng cân đối. Dường như bà bằng
lòng với cái thân hình của mình. Thỉnh thoảng bà cũng cân chỉnh chế độ nọ chế
độ kia. Ôi giời! Gày được vài hôm thì béo bảy tháng. Còn tính nết thì sao?
Tác giả xây dựng một người phụ nữ rất Việt Nam tôi chưa dám nói đến tứ đức “công dung ngôn hạnh” nhưng biết bổn phận
làm vợ, lo lắng cho chồng chiều chồng hết mực: “Hôm nay thật lạ bà đi chợ mua về một xâu bìm bịp đen xì. Chẳng biết
nghe ai! Bà bảo em ô - xin đổ rượu vào bình rồi thả từng con vào”, “Hôm nay
không ăn gạo lứt nữa, xào thịt dê sả ớt tý ông mang đi”. Mặc dù tuổi đã xế
chiều nhưng vẫn tình cảm biết sưởi ấm giữ gìn hạnh phúc của vợ chồng: “Bà sợ ông ốm, thỉnh thoảng lại sờ trán xem
ông có sốt không. Lạ thật vẫn béo tốt. Sao thế nhỉ? Bà gỡ nhẹ chăn định nằm
cùng ông cho tình cảm. Bận làm bận ăn, cũng lâu lắm chẳng thấy ông hỏi han gì”.
Để đáp lại cái phẩm chất cao đẹp của người
phụ nữ Việt Nam nhà thơ Minh Hiền lại xây dựng nhân vật phụ là ông chồng bà
chủ. Một người đàn ông lạnh lùng: “Lúc
lên giường, cái mền chăn mỏng ông quấn chặt lấy người, trời rét cũng như trời
nóng”, “Bà lạ nhỉ, tôi có sốt xiếc gì
đâu, bà xê ra. Không chịu được, ồi dào!”. Một con người chỉ biết sống theo
bản năng của đàn ông không hề có một chút nhân cách: “Đêm đêm bà vẫn thấy ông ngủ cứ nghiến răng kèn kẹt, ú ớ lảm nhảm nhắc
tên cô ấy”. Như một con công chỉ biết xòe đuôi khoe mẽ, múa may, sĩ diện,
cố thể hiện mình để chinh phục bạn tình: “Ông
là giáo sư tiến sĩ gì gì, giảng dậy ở một trường đại học có tiếng ở Hà Nội. Ông
có chiếc xe bốn chỗ màu trắng tự lái lấy rất oai”, “Già rồi! Chân tay yếu ớt chậm chạp, mắt mũi kèm nhèm, vẫn cố lái chỉ để
giải quyết khâu oai”. Minh Hiền rất khéo léo khi xây dựng nhân vật qua
ngoại hình để nói đến tính cách một con người: “Ông nhà cũng oách lắm. Phải cái hơi lùn, nghe đâu cũng chịu khó tập xà
mà chẳng khá lên được”.
Truyện
ngắn chỉ 2 nhân vật phụ và 1 nhân vật chính. Cả 2 nhân vật phụ đều là điểm tựa
để kích nhân vật chính và cốt truyện lên đến cao trào. Có nhân vật Mây mới thấy
cái hiền hòa đôn hậu của nhân vật bà chủ rõ nét hơn. Có nhân vật mất nhân cách
chỉ có bản năng của đàn ông mới thấy phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt
nam. Chung thủy, nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng miễn sao giữ được hạnh phúc gia
đình. Nhưng số phận thật trớ trêu: “Đang
sắp chết chìm trong căn nhà khô khốc, bà quờ tay ra sau lưng áo mình, mồ hôi có
thể vắt ra thành nước” khi nhìn thấy cảnh “Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy một đứa bé trai chừng 7 – 8 tuổi, lén nhìn
thật lâu xem trên khuôn mặt nó có hình dáng gì giống ông nhà không. Nhưng lẫn
lộn cái nét mặt trẻ kia, đang ngồi kia chải chuốt, phấn son loè loẹt trong ngôi
nhà chồng mình sắm sửa. Bà chợt nghĩ ra… thằng bé… rồi bà cũng nhờ người lấy
được vật chứng thử ADN, và người ta đã trả lời thằng bé cùng huyết thống”.
Minh Hiền để cho nhân vật của mình, khi tuyệt vọng vẫn cố đi tìm những gì mình
đã mất. đó là tính nhân văn trong truyện.
Đoạn kết thật tuyệt vời. Tác giả để cho
người đàn bà bất hạnh đến phút cuối vẫn đi tìm những kỷ niệm cũ: “Như nhớ ra điều gì bà nâng niu một cây rau
muối núp trong ruộng ngô, nó đang phủ lên mình một thứ phấn đẹp lạ lùng. Nhớ
ngày xưa trong ruộng ngô này, bà và ông có khác gì Chí Phèo Thị Nở”. Mặc dù
trong lúc tuyệt vọng vẫn nghĩ đến mai sau: “Chị
mất hết cả rồi! Những cây ngô này đẹp đấy, bắp đều đấy. Rồi đến lúc họ sẽ chặt
đi. Cái hoa đực sẽ tìm cái hoa cái khác thụ phấn”. Tác giả vẫn để cho nhân
vật chính của mình luyến tiếc cái chung thủy của tình yêu đôi lứa: “Bà giơ tay ra với cái màu tím của mình. Đất
bờ sông mấy hôm nay mưa nhiều, bên lở đang lở. Bà trượt chân và cuốn theo dòng
nước trong chiều hoàng hôn đệnh mệnh”. Minh Hiền không muốn giết chết nhân
vật của mình, chỉ để nhân vật trượt chân như bao vết trượt khác. Còn chết hay
không thì để người đọc suy đoán.
Nghiêm Thản
TƯỢNG
GÓA HAY NỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ QUA THI PHẨM “VÔ TRI” CỦA ĐỖ CHIẾN THẮNG
Quảy tiếng gà trưa qua chiều giá lạnh
Gói tia nắng lẻ loi ủ ấm đêm lỡ hẹn
Dế mèn khóc vì rượu tình quá chén
Đêm cử hành tang lễ nỗi mồ côi.
Tượng đài góa gió bật tung khuy ngực
Xin hãy phả hồn người cho đá lạnh giọt mắt rơi
Đừng để đá vô tri trói mình quá chặt
Khuếch đại âm thanh đá khóc giống như người.
25.1.2019. Đỗ Chiến Thắng
Lời bình: Nghiêm Thản
Cuộc sống của mỗi con
người ai không muốn vuông tròn, ai không mưu cầu hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay
có biết bao người không theo được ý nguyện của mình. Chiến tranh, thiên tai,
địch họa, dịch dã đã làm cho họ phải ly tán cô đơn, cũng có thể là một cuộc
tình lỡ hẹn không thành làm cho người phụ nữ phải sống trong cảnh gối xô chiếu
lệch… Bài thơ “Vô tri” của nhà thơ Đỗ
Chiến Thắng, hội viên hội nhà văn Hà Nội đã đã khắc họa lại một cuộc tình ngang
trái. Mỗi câu thơ như khía vào nỗi đau của người phụ nữ cô đơn. Có người một
mảnh tình vắt vai còn không có, thiên chức làm mẹ không được. Đỗ Chiến Thắng là
phái mạnh nhưng anh thấu hiểu hết nỗi lòng của người phụ nữ đã từng cô đơn. Bốn
câu thơ khổ đầu anh viết đầy tính ước lệ, anh muốn gửi ý thơ của mình vào những
câu thơ ảo để tạo ra một văn cảnh nó buồn hơn đẹp hơn éo le hơn. Anh đã dệt nên
cảnh buồn đến não ruột, đến quạnh quẽ se sắt lòng:
“Quảy
tiếng gà trưa qua chiều giá lạnh
Gói tia nắng lẻ
loi ủ ấm đêm lỡ hẹn
Dế mèn khóc vì
rượu tình quá chén
Đêm cử hành tang
lễ nỗi mồ côi”.
Chọn
tiếng gà cũng là một nghệ thuật, bởi mỗi tiếng gà cất lên trong ngày đều có sắc
thái và ý nghĩa riêng của nó. Tiếng gà gáy buổi trưa thường eo óc rất buồn, mà
anh lại “quảy” từ “trưa qua chiều” mà chiều lại là một buổi
“chiều giá lạnh”. Chứng tỏ Đỗ Chiến
dùng từ dùng ý rất chọn lọc. Qua từ “quảy”
ta đã thấy cái vất vả rồi, quảy “từ trưa
qua chiều”, thời gian trong một ngày là quá nhiều. Nhưng ở đây không phải
là thời mà tác giả bắt quảy từ trưa sang chiều, mà là tiếng gà cứ thưa thớt eo
óc như sóc vào óc, như chọc vào tâm can “từ
trưa qua chiều” của người phụ nữ cô đơn. Vậy thì câu thơ lại càng hay càng
thêm thi vị. Đọc đến đây ai cũng muốn làm thơ, bởi thơ là tinh hoa của ngôn ngữ
mang tính ước lệ cao quá. Đỗ Chiến Thắng còn phải “gói tia nắng lẻ loi”, một tia mong manh yếu ớt để ủ ấm cả cái đêm
giá lạnh. Một trái tim đơn lẻ. Đỗ Chiến Thắng Viết rất ảo mà thật, anh “quảy tiếng gà”, anh “gói tia nắng lẻ loi”. “Quảy, gói” là những động từ ta vẫn dùng
hàng ngày nhưng vào thơ anh lại là những mỹ từ, những hình ảnh “tiếng gà, tia nắng lẻ loi” làm cho thơ
anh đã thơ lại càng thơ hơn. Những hình ảnh “quảy tiếng gà trưa, gói tia
nắng lẻ loi” làm cho người tình đã cô đơn còn cô đơn hơn. Chưa hết, hình
ảnh “dế mèn khóc” và “tang lễ
mồ côi” càng làm cho khung cảnh
buồn đến tê tái. Ở đây ta phát hiện ra một điều thú vị nữa. Tại sao Đỗ Chiến
Thắng lại mượn tiếng dế mèn thay cho tiếng người để khóc, trong khi có biết bao
tiếng côn trùng khác còn nỉ non hơn, rát ruột hơn. Có phải chăng dế mèn người
ta còn phong cho nghệ sĩ vĩ cầm, mà bây giờ lại khóc. Vậy thì câu thơ lại càng
ý nghĩa hơn. Chúng ta nhiều đêm nghe tiếng côn trùng rả rích kêu, tiếng mọt
giường kèn kẹt, hay tiếng thạch sùng tặc lưỡi, tiếng mưa đêm tý tách… những âm
thanh ấy đều làm ta buồn đến nẫu ruột nẫu gan. Bốn câu thơ đẹp mà rất gợi, bắt
người đọc phải liên tưởng, phải so sánh đến cuộc đời của mình cuộc đời của
người khác. Có thể nói đây là bốn câu thơ tài hoa. Chỉ bốn câu thơ trên cũng đã
hoàn chỉnh là một bài thơ nói về tâm trạng buồn tình rất hay rồi. Nhà thơ N.T
cũng đã viết về cái cô đơn đáng sợ của người phụ nữ:
“Đêm dài tiếng thở dài hơn
Đặt tay lên ngực
giận hờn tuổi xanh”
(Đêm
dài)
Cả đêm gối xô chiếu lệch nghĩ đến cuộc đời
cô đơn, nghĩ đến tuổi thanh xuân của mình phải chịu bao nhiêu thiệt thòi… tự
tay mình đặt tay lên ngực mình thì giải quyết được điều gì, làm sao mà đánh
thức được những miền rung cảm. Ca dao có câu:
“Chàng giờ an phận tốt đôi
Em đây lỡ lứa mồ côi một mình”
Vậy nên người phụ nữ ngày xưa những đêm
cô đơn thường đổ thóc ra xay là vậy. Bốn câu thơ tiếp theo Đỗ Chiến Thắng như
thổi hồn vào chị em phụ nữ cô đơn:
“Tượng
đài góa gió bật tung khuy ngực
Xin hãy phả hồn người cho đá lạnh giọt mắt rơi
Đừng để đá vô tri trói
mình quá chặt
Khuếch đại âm thanh đá
khóc giống như người”
Huyền thoại đá “Vọng phu” chính là tượng
đài của người phụ nữ cô đơn, tất nhiên còn nhiều ý nghĩa khác. Câu thơ của Đỗ
Chiến Thắng rất mạnh mẽ, anh như muốn tiếp sức cho chị em, anh hiểu được sức
sống đang hừng hực, bầu ngực căng tràn sức sống của người phụ nữ, cần phải bật
phá cần phải có một bầu trời riêng cho mình. Dẫu hóa đá cũng phải “bật tung khuy ngực” soải cánh bay tung
trời. Và chính nhà thơ Đỗ Chiến Thắng không ai khác đã phả hồn cho họ, “phả hồn cho đá” khuyên họ cứ khóc đi,
khóc thật nhiều, cho hả, cho quên đi tất cả, cho hết cô đơn để cuộc đời sang
một trang mới tươi đẹp hơn hạnh phúc và ấm áp hơn. “Ngoài trời đã rạng bình minh/ Đã đôi
chim sẻ dụ tình đuổi nhau” (đêm
dài N.T). Thế thì đừng coi mình như đá vô tri vô giác mà trói mình trong cái
vòng kim cô luẩn quẩn kia, hãy nới lỏng tâm hồn ra. Phía chân trời kia đang ửng
hồng. Cuộc sống còn nhiều cái đáng yêu và tươi đẹp lắm. Nhà thơ Minh Hiền, cùng
là phụ nữ với nhau chị cũng đã chia sẻ bằng những câu thơ đầy nữ tính:
“Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả
thơ trôi cho bằng”
(Lệch)
Mỗi cây mỗi hoa mỗi
nhà mỗi cảnh. Nữ nhà thơ Minh Hiền không “phả
hồn vào đá” cho “đá khóc giống như
người” như Đỗ Chiến Thắng mà chị đi tìm những thú vui khác an ủi chia sẻ
cùng bạn mình, lệch thì phải kê. Một điều thú vị là chị lấy thơ kê cho bằng. Để
rồi ai đó trở thành nhà thơ, và hết những cô đơn, cuộc đời cũng lại sang một
trang mới tươi đẹp hơn,
Bài thơ ngắn chỉ 2 khổ 8 câu giàu hình
ảnh, ngôn ngữ và hình ảnh được chọn lọc rất sáng tạo làm lung linh câu chữ, tạo
cho câu thơ trở nên đẹp, duyên dáng mà cô đọng súc tích nói nên được nỗi cô đơn
bất hạnh của người phụ nữ nhưng lại thổi hồn cho họ mở ra một chân trời mới đầy
tính nhân văn, mang tính tư tưởng. đọc bài thơ chị em sẽ tin ở mình hơn bản
lĩnh hơn.
Nghiêm Thản
Ba ngàn một mớ gừng cay
Chợ Ba Mươi Tết chân say ngập bùn
Tiếng mời của mẹ run run
Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu.
Hồn quê chiều nhuộm sắc màu
Người gồng người đội chen nhau vội
vàng
Con mua đã nặng tay mang
Tình con thương mẹ xốn xang nghẹn
lời.
Tay cầm năm chục rối bời
Loay hoay đi đổi mấy người gần xa
Mớ gừng nhổ vội vườn nhà
Mẹ mang đi bán củ già lá non.
Tiền thừa không phải trả con
Xin mừng tuổi mẹ nỗi buồn vơi đi
Tiền thu ít ỏi mua chi?
Mẹ ơi mẹ sắm được gì đón xuân?
Lời bình của Nghiêm Thản
“Chợ” là nơi giao lưu hàng hóa có từ khi
loài người biết tự sản xuất ra thứ mình dùng, không riêng gì Việt Nam mà trên
khắp toàn cầu. Chợ còn là nơi thể hiện nền văn hóa, sự giàu nghèo, và đặc trưng
của mỗi vùng miền khác nhau.
Viết về “chợ quê” và những người mẹ, các người thơ đã viết rất nhiều và rất
nhiều, nếu đem tất cả những bài thơ đã viết mà đặt lên bàn cân có thể lên đến
hàng “tấn”, hoặc xếp cao lên có thể “đổ chết người”. Đó là cách nói hài hước
nhưng lại là thực tế. Những người cầm bút có lẽ không ai không có một vài bài
viết về những miền quê thân thương, về những người mẹ tảo tần một nắng hai
sương. Trong tờ Thời báo văn học nghệ
thuật tôi bắt gặp bài “Chợ quê”
của nữ nhà thơ Đào Thanh Cườm hội viên hội nhà văn Hà Nội. Tác phẩm “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm khác hẳn với
rất nhiều bài “Chợ quê” mà tôi đã
được đọc. Những tác phẩm ấy thường là giới thiệu những mặt hàng nông sản rất
phong phú và không quên nói đến tình người quê mưa nắng dãi dề có nhau. Viết về
chợ quê nhà thơ NT cũng cho ta thấy cái giản dị dân dã của người quê:
“Một ngàn hai mớ rau xanh
Hai trăm đồng mấy củ hành thơm thơm”
Hoặc:
“Mặn mà mấy lọ dưa cà
Món ăn dân dã đậm đà tình quê
Người quê mưa nắng dãi dề
Mớ tôm mớ tép đi về có nhau
Thắm tình cô bán trầu cau
Vàng hương đủ cả đượm màu thời gian".
Riêng tác phẩm “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm ta không thấy chị giới thiệu phong phú
các mặt hàng nông sản. Độc nhất vô nhị chỉ một mặt hàng, mà lại là “Gừng cay”. Có lẽ câu “Gừng cay muối mặn” đã ăn sâu vào tâm
thức người Việt, ăn sâu vào tâm thức tác giả. “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm lại vào Ba Mươi Tết, là ngày năm cùng
tháng tận, người bán người mua đã thưa thớt dần dần Vậy nên bài thơ gây nhiều
nỗi ám ảnh cho người đọc:
“Ba ngàn một mớ gừng cay
Chợ Ba Mươi Tết chân say ngập bùn”
Chị viết trong vô thức hay chị cố tình
xếp đặt? Mặt hàng của chị sao không là một thứ nông sản có giá trị mà lại là mớ
gừng cay? Phong tục Tết cổ truyền của người Việt chúng ta không biết có từ bao
giờ. Ngày Tết có đủ các món đặc biệt làm ra đãi khách vừa ngon vừa độc đáo. Các
loại bánh, các món ăn chay, chè kho, chè lam, và nhiều món ăn mặn khác… đều
không thể thiếu vị gừng. Gừng cay còn để tẩy uế những thứ đã ô uế vấy bẩn. Còn
chế nước tắm cho tượng Phật tượng thánh nơi đình chùa linh thiêng. Gừng cay còn
thể hiện cái cay đắng chua chát của của cuộc đời đã từng nếm trải. Vậy nên mới
có câu “Gừng càng già càng cay” là
vậy. Ca dao có câu:
“Gừng già gừng lại càng cay
Rau răm ở lại gừng bay lên trời”
“Chợ
Ba Mươi Tết chân say ngập bùn”. Phải chăng tác giả muốn nói đến cái lam lũ,
vất vả, tần tảo của người quê. Chưa hết:
“Tiếng mời của mẹ run run
Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu”.
Đọc câu thơ mà ta thấy ngậm ngùi chua
xót. Phải chăng người bán hàng là mẹ mình thì đau biết nhường nào. Ba Mươi Tết
là những ngày năm cùng tháng tận. Người mẹ chân tay đã run rẩy còn phải đi bán
một mớ gừng, bán được mớ gừng thì giải quyết được cái gì cho ba ngày Tết. Thật
vô cùng cám cảnh khiến người đọc muốn rơi nước mắt khi “Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu”. Hình ảnh áo nâu chính là hình
ảnh người mẹ. Tuy vậy Đào Thanh Cườm vẫn không quên cái hồn quê của ngày áp Tết
vẫn người mua người bán rộn ràng: “Hồn
quê chiều nhuộm sắc màu/ Người gồng
người đội chen nhau vội vàng/ Con mua
đã nặng tay mang/ Tình con thương mẹ
xốn xang nghẹn lời”.
Lời thơ bắt đầu đi vào tự sự như một câu
chuyện kể ngày Ba Mươi Tết. Ta bắt gặp nhân vật “con” là một vị khách hàng đã sắm sanh được nhiều thứ “Con Mua đã nặng tay mang” Nhưng vị khách
hàng này đang nghĩ gì về người mẹ già run run trong mưa phùn gió rét ngồi bán
mớ gừng cỏn con kia. Và vị khách ấy đã mua giùm cho người mẹ nghèo kia. Chắc
hẳn trong túi người mẹ bán gừng không một đồng vì thế cho nên:“Tay cầm năm chục rối bời/ Loay hoay đi đổi mấy người gần xa”
Đọc câu thơ vô cùng ám ảnh, mớ gừng chỉ
bán ba ngàn, mà vị khách lại đưa những năm ngàn, tiền đâu mà trả lại đây. Nghèo
đến thế thì thôi! Là độc giả đa sầu đa cảm mới thấy câu thơ như cứa vào ruột
gan, như nghẹn lại khi người mẹ “Loay
hoay đi đổi” tiền. Sự cần tiền trong những ngày Tết vô cùng quan trọng cho
tất cả mọi người đâu phải người mẹ nghèo kia. “Mớ gừng nhổ vội vườn nhà/ Mẹ mang đi bán củ già lá non”. Đọc thoáng
qua thôi ta chưa thấy người mẹ cần tiền đến như thế nào. Người mẹ không bán củ
không mà bán cả “củ già” lẫn “lá non”, xem ra người mẹ không có còn
thứ gì để bán nữa. Trở lại câu chuyện bán mua: “Tiền thừa không phải trả con/ Xin
mừng tuổi mẹ nỗi buồn vơi đi”.
Ở đây ta mới thấy Đào Thanh Cườm đẩy tứ
thơ lên đến cao trào, tính nhân văn được nâng lên, chị đã để vị khách hảo tâm
kia không lấy lại tiền thừa. Tiền thừa có được là bao nhưng không phải là tiền
bố thí, mà là tình thương thực sự, là tấm lòng của người quê bởi “Con mua đã nặng tay mang” đã nhiều rồi,
nhưng con vẫn mua giúp mẹ đấy thôi. Tấm lòng của vị khách là “Tình con thương mẹ” đến “nghẹn lời”. Nhưng sự ngậm ngùi của vị
khách mới là tấm lòng của người quê: “Tiền
thu ít ỏi mua chi?/ Mẹ ơi mẹ sắm được
gì đón xuân?”
Tình quê là vậy. Đã đành rằng “nhiều no ít đủ”. Câu hỏi được đặt ra là
sự thông cảm sẻ chia. Thử hỏi rằng tiền bán mớ gừng kia, người mẹ mua được
những gì, và người mẹ đã sắm sanh được những gì cho ba ngày Tết, mà người mẹ
vẫn mong có tiền để tiêu Tết. Cảnh nghèo của người quê càng ám ảnh vào tâm thức
của người đọc. Đó là cách viết rất gợi cảm, bắt độc phải dừng lại để suy nghĩ.
Xã hội là vậy. Người nghèo vẫn cứ nghèo, kẻ tham nhũng vẫn cứ tham. Phải chăng
Đào Thanh Cườm chạm nhẹ vào những nát cắt của xã hội.
Với 12 câu lục bát mượt mà đằm thắm nhà
thơ Đào Thanh Cườm đã chia sẻ tình quê với mọi người. Chị như đã thấu hiểu được
con người nhà quê, và cái tình quê đậm đà đến nhường nào. Cũng giống như cố nhà
thơ Nguyễn Bính dù đi khắp mọi miền của Tổ quốc vẫn tha thiết trở về quê, nơi
chôn nhau cắt rốn, nơi có tổ tiên mồ mả ông bà ông vải mình. Chúc chị thành
công trong lĩnh vực văn chương.
Ngày 29.Tết.Nhâm Dần
30.01.2022
Nghiêm
Thản
Phân
tích về từ ước lệ:
Ước lệ là cách quy ước biểu trưng trong
biểu hiện nghệ thuật. Hiểu đơn giản, ước lệ là quy ước 契
約 về chuẩn mực so sánh, ví von, nhân
cách hoá giữa các sự vật hiện tượng nhằm tạo ra một cách hiểu chung nào đó
trong văn học nghệ thuật và trong đời sống mang tính khái quát. Ước lệ gốc là
từ Hán, ta tách ra phân tích từng từ ta thấy:
-
Ước 約: Quy ước, giao ước, hẹn ước, định
ước… Lệ 例: luật lệ, lệ làng, điều lệ, lệ phí…
bắt buộc phải theo, ta có từ ước lệ: 約 例
-
Ước 約: Ước chừng, ước đoán, khoảng, độ…Lệ
例: Lệ thường, thể lệ, tiền lệ, thói
quen, vẫn thế không thay đổi...條 例. Từ ước lệ ở đây lại có nghĩa: Không được chính xác lắm,
khoảng hoặc độ chừng ấy, tương đối, na ná giống nhau, gần gần như thế, đại khái
như thế…
Ước
lệ thường gắn liền với tượng trưng. Vậy tượng trưng là gì? Tôi không đi sâu vào
phân tích từ “tượng trưng” mà chỉ
khái quát: Tượng trưng là dùng một hình tượng, hoặc hình ảnh cụ thể để biểu
hiện một khái niệm, tư tưởng hoặc tình cảm, con người tương tự. Tượng trưng
thường mang tính trừu tượng.
“Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa
Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi
Đèn cao áp như mờ hơn một chút
Thương cây bàng một mình đứng đơn
côi”
(Hà Nội vào
Đông – NT)
Bốn câu thơ trên, mỗi câu là một hình
ảnh, những hình ảnh “Mùi hoa sữa, cỏ công
viên sương ướt, đèn cao áp như mờ đi” là những hình ảnh tượng trưng cho mùa
đông đã đến, riêng hình ảnh “cây bàng
đứng đơn côi” đã tượng trưng cho mùa đông rồi lại tượng trưng cho con người
đang đứng một mình đơn lẻ, gợi một nỗi buồn man mác.
Tính ước lệ tượng trưng trong thơ là bút
pháp ước lệ tượng trưng là cách sử dụng những quy ước trong biểu hiện nghệ
thuật như dùng hình tượng thiên nhiên đẹp trăng sao, cỏ cây hoa lá, trời mây…
nhân cách hóa để nói về vẻ đẹp của con người. Thủ pháp ước lệ tượng trưng
nghiêng về gợi cảm, nó sẽ tác động tới người đọc thông qua sự thẩm bình ngữ
nghĩa, ngôn từ, và trí tưởng tượng để biến hình ảnh thành hình tượng, có thể đa chiều, đa dạng của người đọc. Không cụ
thể, mang tính khái quát mà vẫn logic chứ không miêu tả cụ thể tỉ mỉ, người đọc
hiểu được ý biểu cảm của mình tuy trừu tượng mà không bắt bẻ được, tưởng sai mà
đúng như câu thơ của Dương Tùng Giang tưởng vô lý mà có lý:
“Tôi
ngước nhìn bầu trời tím biếc
Đi tìm thi vị cuộc đời trong những giọt
mưa xuân”
Hình ảnh “bầu trời tím biếc” đồng nghĩa với xanh như lơ, thì tìm đâu ra “giọt mưa xuân” để mà tìm ra cái thi vị
của cuộc đời. Như vậy rõ ràng là câu thơ viết vô lý. Nhưng lại có lý vì câu thơ
lại nằm trong văn cảnh của một tứ thơ viết về người lính bị chất độc quái quỷ “màu da cam” chết người, làm cho người
lính phải chịu khổ đau luôn luôn khao khát được hạnh phúc như bao người khác.
Giống như những người lính biển sông giữa đại dương mênh mông nước mà vẫn khát
thèm nước ngọt, nhưng tìm đâu ra. Vậy thì Dương Tùng Giang anh ngửa mặt kêu
trời để trời cứu, chứ đâu phải ngắm cái đẹp của bầu trời tím biếc xanh như lơ
đẹp đến lung linh tuyệt vời kia. Thế thì câu thơ lại là có lý.
Nhà thơ Minh Hiền dùng thủ pháp ước lệ
biểu cảm về tình cảm con người chị lấy hình ảnh gió, mây để viết: “ Ngúng nguẩy gió,/ Thủng thẳng gió,/ Gió có
phẳng đâu,/ Vốc một vốc sương ném vào mây…”. Gió là vật vô tri vô giác ta
còn không nhìn thấy được, nhưng lại có tình cảm sâu sắc làm cho câu thơ không
sáo, dễ hiểu, rất gợi, mà không là đánh đố người đọc. Sương thì ai mà vốc được,
nhưng lại rất logic, bởi nó đã vượt xa cái bình thường của ngôn ngữ trong thơ.
Với những hình ảnh ước lệ tượng trưng
quen thuộc không mỹ từ, nhưng Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình miêu tả
được những bức chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Khi tả chị em Thuý Kiều:
“Mai
cốt cách, tuyết tinh thần”.
Dáng vẻ của họ thanh tú như cây mai, tâm
hồn trong trắng như tuyết. Tả Thuý Vân: “Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước
tóc tuyết nhường màu da”. Qua nhiều hình ảnh ước lệ “khuôn trăng”, nét ngài”
hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể
hết được tỉ mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần.
Vẻ đẹp “trang trọng, đầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết
nhường” luôn tạo cho mọi người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng.
Vân hiện lên với chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu. Tả Thuý Kiều: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm liễu hờn kém xanh”. Nguyễn Du cũng dùng những hình ảnh ước lệ quen
thuộc “làn Thu thuỷ”, “nét Xuân sơn” để chỉ ánh mắt, lông mày.
Tuy vậy với những hình ảnh “hoa ghen,
liễu hờn” nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều thuộc loại nhan sắc độc
đáo kỳ lạ, vượt lên sự bình thường. Vẻ đẹp “sắc
sảo, mặn mà”. Nhiều người như nhà thơ Thanh Long lại thẩm thơ một cách máy
móc cho rằng Nguyễn Du tả như thế thì Thúy Vân xấu chứ không đẹp. Bởi với cái
mặt tròn như “khuôn trăng” lại có đôi
lông mày như con ngài thi to quá. Hoặc câu: “Tà tà bóng ngả về Tây” tưởng như vô lý, nếu ta không hiểu hết tính
ước lệ trong thơ, mà soi mói rằng bóng thì phải ngả về Đông mới là logic, lại
hoá ra Nguyễn Du viết không logic.
Nhà thơ Đỗ Chiến Thắng viết bài “Hồ Gươm Thu” câu mở đầu: “Cành lộc vừng lả ngọn xuống hồ Gươm” là
viết theo thủ pháp ước lệ nhưng nhà
thơ Văn Chương lại cho là không thực tế bởi cây lộc vừng không có ngọn. Vậy nên
người thẩm thấu thơ phải hiểu hết được tính ước lệ trong thơ. Ngược lại người
viết thơ cũng phải biết được tính logic trong thơ để tìm tòi những ngôn ngữ phù
hợp hài hoà làm cho người đọc phải chấp nhận. Ngoài đời làm gì có “lá diêu bông”, Hoàng Cầm anh nặn ra mà
độc giả phải chập nhận đấy thôi.
Trong văn học nghệ thuật, ước lệ là sự
hiện thực hoá trong sáng tạo thẩm mĩ khả năng biểu đạt cùng một nội dung của
nhiều hệ thống hình ảnh bằng những phương tiện cấu trúc khác nhau. Chỉ nên nói
về tính ước lệ trong tác phẩm ở mức
mà nhìn chung và khái quát. Chúng ta có thể nói về ngữ nghĩa của các hệ thống
hình ảnh hoặc ký tự được sử dụng trong trong thơ.
Có
lẽ sử dụng thuật ngữ “hình thức hoá”
sẽ phù hợp hơn với nơi mà chủ yếu chỉ có thể bàn về chuyện cú pháp trừu tượng.
Một hệ thống biểu đạt mang đặc tính ngữ nghĩa thường được sử dụng trong tác phẩm
nếu có sự tự do rõ nét so với đối tượng được biểu đạt, thì điều đó sẽ cho phép
ta nói về tính ước lệ tượng trưng
của nó. Hệ thống ấy tất yếu sẽ áp đặt lên nội dung chuyển tải những quy định mà
người thẩm bình thơ chưa nhận ra. Tương tự như thế, chúng ta sẽ không thấy có
gì khác lạ, ta xem một bức tranh trừu tượng người họa sĩ chỉ biểu cảm bằng
những nét đơn giản phác thảo, nếu ta đi vào chi tiết cụ thể tỉ mỉ lại thành
tranh cãi.
Tóm lại người viết thơ dùng thủ pháp nghệ
thuật ước lệ tượng trưng trừu tượng,
cũng phải tuân thủ tính logic trong thơ đừng đi quá xa thì người đọc mới chấp
nhận được.
Nghiêm
Thản
Ngôn ngữ chính
là chất liệu tối ưu của người cầm bút, sau những vốn sống, nhà thơ phải lao đọng
nghệ thuật chứ không đơn thuần là viết. Từ đó nhà thơ phải gọt rũa nhào nặn thật
nhuần nhuyễn, đặt đúng nơi đúng chỗ của nó để tạo nên thi phẩm của mình. Những
dòng thơ mới luôn luôn được tiếp cận với các nền văn học của nước ta và mọi miền
trên thế giới, nhất là nền văn học phương Tây. Tất cả phải được thẩm định một
cách sâu sắc, và sáng tạo mà vẫn giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt, để
tiếng Việt của mình luôn được hoàn thiện và phát triển. (Biết những ngôn từ
ngoài từ điển tiếng Việt mà vẫn biểu cảm được ý thơ là một sự sáng tạo ngôn ngữ).
Sự mã hóa câu thơ đi từ hướng nội sang hướng ngoại, gọi là những câu thơ ảo (ý tại ngôn ngoại) giàu hình ảnh, sắc
thái, nhạc điệu là điều cần thiết. Đó chính là khả năng chuyển hóa ngôn ngữ. Từ
vựng luôn luôn thay đổi và phát triển theo quy luật tiến hóa của loài người,
phát triển của ngôn ngữ. Đó cũng là đặc trưng của ngôn ngữ trong nền văn học
nói chung và thơ nói riêng.
Nếu giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của
âm nhạc; đường nét, màu sắc là ngôn ngữ của hội họa; hình khối, mảng là ngôn ngữ
của kiến trúc, thì ngôn ngữ lại là thứ
chất liệu vô cùng quan trọng của văn học. Macxim Gorki đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”
Ngôn ngữ trong mỗi thể loại trong văn học
có những đặc điểm riêng của nó, người cầm bút phải biết lấy ngôn ngữ làm cứu
cánh.với thơ vị trí của ngôn ngữ cực kì quan trọng. Đó là thứ ngôn ngữ được chắt
lọc, chưng cất rất công phu mới có. Cho nên một thi phẩm chính là một tổ chức
rất chặt chẽ, cao siêu của ngôn ngữ. Bởi vậy ngôn ngữ thơ luôn được coi trọng
vào bậc hàng đầu nó là “Tinh hoa của ngôn
ngữ được chắt lọc từ vị đời”. Ngôn
ngữ thơ là thứ được chứa đựng phong phú
những hàm súc của ngôn ngữ, nó chuyển tải những cảm xúc, hình ảnh, âm thanh, màu
sắc, nhạc điệu…tất cả những đặc điểm ấy được quyện vào nhau để ra một thứ đa
chiều đa dạng gọi là hình tượng trong thơ.
1.
Hình ảnh, tính tượng trưng trong thơ
Hình ảnh trong thơ bao giờ cũng là sự kết
tinh của ngôn ngữ. Hình ảnh sẽ tượng trưng cho con người, và tâm tư tình cảm
con người. Thơ tạo dựng một vũ trụ qua trung gian hình ảnh tượng trưng dẫn đến biểu
tượng một vũ trụ phi thực, một vũ trụ có ý nghĩa trong tính cách riêng của nó.
Hơn đâu hết biểu tượng hình ảnh là điều kiện của thơ, lý do tồn tại của thơ.
Hình ảnh tạo ra hình tượng, đi đến nhân cách hóa, đi đến tính ước lệ trong thơ,
vượt xa cái bình thường.
Vậy nên dù là từ tiếng
vọng của hồn cốt tâm linh, dù là tiếng gọi của non sông, dù rằng viết trong vô
thức…Thơ tồn tại được đều phải dựa vào ngôn ngữ và hình ảnh. Đó là nhưng thi liệu cốt yếu
trong thơ. Vậy thì hình ảnh trong thơ không phải là tổng số những hình ảnh mà
không nói được điều gì, mà ta phải chắt lọc, chọn lựa để có những hình ảnh chuyển
tải được giá trị biểu cảm giàu tính hàm xúc để tạo nên một kết quả nghệ thuật
cao, thể hiện được đúng tâm tư tình cảm, và tính sáng tạo của người cầm bút.
Ngôn ngữ của thơ không phải là phạm trù của tự nhiên như trong các môn khoa học
(1+1=2) mà là diễn đạt bằng hình ảnh dù là cụ thể hay trừu tượng. Ví dụ để diễn
tả một khung cảnh tháng ba nhà thơ Minh hiền viết:
“Xác hoa gạo bên đường dựng thành một cảnh/ Cánh rụng, đài rơi, thương lắm hoa ơi. (Tháng
Ba,với tôi - Minh Hiền)
Đọc câu thơ ta thấy tác giả không hề nói
đến tháng Ba, nhưng ta vẫn biết được đấy là tháng Ba bởi từ “hoa gạo” là hình ảnh của tháng Ba. Những
hình ảnh “xác hoa” “cánh rụng đài rơi”
lại cho ta cảm thấy một nỗi buồn man mác.
Có những hình ảnh cụ thể mà rất đẹp làm
ta bừng tỉnh dậy “Một tiếng chim kêu sáng
cả rừng”(Khương Hữu Dụng)
Nhà thơ Việt Hồng anh viết về đứa con bị bán sang Trung
quốc khi trở về nhưng chỉ được trong chốc lát, anh dùng hình ảnh con cò để nói
con mình:
“Bờ sông mưa bụi lắt lay
Con cò đậu xuống, rồi bay phương nào!”
Như vậy hình ảnh “con cò” đã biến thành hình tượng của con gái mình. Khổ thơ đầu của
nhà thơ N.T viết về thời tiết giao mùa có 4 câu, mà câu nào cũng có hình ảnh:
“Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa
Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi
Đèn cao áp như mờ hơn một chút
Thương cây bàng một mình đứng đơn côi”.
(Hà Nội và đông – N T)
Những hình ảnh “hoa sữa” thôi vương mùi, cỏ
công viên “sương ướt”, “đèn cao áp như mờ hơn”,
“cây bàng” đã tượng trưng cho mùa đông đã đến. Và từ hình ảnh “cây bàng” lại hóa thành hình tượng người
con gái cô đơn, gợi nên một nỗi buồn man mác trong thơ.
2 - Trong thơ có họa
Ngôn ngữ của
thơ lại mang mầu sắc đó là tính họa trong thơ. Đọc một câu thơ độc giả có thể
tưởng tượng ra một bức tranh rất đẹp đó là tính họa trong thơ đã đạt tới đỉnh
cao của nghệ thuật:
“Cành liễu đung đưa thả buông thướt
Em
gái Huế tóc dài mát mượt
Nón
chùng quai đầu ngả che mưa
Cho
anh hỏi đường về thôn Vĩ”.
(Mưa
Huế N.T)
Bốn câu thơ là một bức tranh thật sinh động:
Đó là một cô gái Huế “tóc dài mát mượt”,
“nón chùng quai” rất điệu đà đứng bên
bờ sông hương thật thơ mộng, có “cành liễu
đung đưa thả buông thướt” tha bên bờ. Bên cạnh đó là một chàng trai thanh lịch
đang hỏi đường.
Nhà thơ Tố Hữu viết về bốn mùa ở Việt Bắc
bằng những ngôn ngữ giàu tính họa như một bức tranh tứ quí:
“Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi
giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ
cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ
ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
(Tố Hữu)
Nhưng hình ảnh
tả thực “hoa chuối đỏ tươi”, trên đèo
có “ánh nắng” vàng rực rỡ trong ngày
xuân có “hoa mơ nở trắng rừng” có cố
gái hái măng dao gài thắt lưng… Tố hữu đã vẽ nên một bức tranh bằng thơ thật đẹp
của núi rừng Tây Bắc
3 – Tính nhạc trong thơ
Nói đến thơ là ta nói đến giai điệu của
ngôn ngữ. đó chính là nhịp điệu của câu chữ, sự phối thanh bằng trắc. Một bài
thơ nếu không có giai điệu thì bài thơ ấy trở thành lủng củng. trở thành
văn xuôi mất rồi. Vậy nên giai điệu trong thơ là một điều tối cần thiết. Giai
điệu của ngôn ngữ đó chính là thơ đã có nhạc. Có những bài thơ đạt đến đỉnh cao
của nghệ thuật khi đọc ta cảm thấy như có tiếng chim hót véo von, tiếng suối chảy
róc rách, hay những bản hùng ca mạnh mẽ, những bản tình ca êm dịu, thấy biển ồn
ào… Để nói nên những âm thanh ngọt ngào của nàng kiều khi gảy đàn cho Kim Trọng
nghe Nguyễn Du viết:
“Trong
như tiếng hạc bay qua
Đục
như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng
mau sầm sập như trời đổ mưa”
Các thi sĩ dùng ngôn ngữ thơ để phản ánh
cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Khi yêu nhạc điệu của ngôn ngữ cũng
theo nhịp đập của con tim, khi thì nồng nàn, khi thì thổn thức thế giới nội tâm
của nhà thơ không chỉ biểu cảm bằng ý nghĩa của ngôn từ mà còn bằng những âm
thanh và nhịp điệu của ngôn ngữ. Có thế xem tính nhạc trong ngôn ngữ thơ là nét
đặc thù cơ bản. Nhạc tính trong thơ còn mang tính duyên thầm làm đẹp câu thơ, tạo
nên cái mỹ cảm cho người đọc và người nghe. “ly khai với nhạc tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên”
(Tam Ích). Thơ là sự phối hợp rất đồng điệu của âm thanh, là sự kết hợp hài hòa
giữa nhạc và ý. Chế Lan Viên nói: “Rơi
vào vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì
thơ dễ làm say lòng người, nhưng nông cạn”. Tóm lại ngôn ngữ trong thơ giàu
nhịp điệu, phong phú về cách hòa âm, tiết tấu, giàu từ láy âm, giàu hình tượng,
chính là thứ ngôn ngữ mang tính nhạc, mà trong thơ không thể thiếu được. Đó
cũng là những yếu tố cắt nhịp, gieo vần phối thanh bằng trắc. Có những câu thơ
không vần nhưng phối thanh tốt khi đọc vẫn có giai điệu ngọt ngào:
“Thu
Hà Nội Hồ Tây gợn sóng
Huế sông Hương như dải lụa mềm
Mái chèo đưa nhẹ tan ánh bạc
Du khách đường xa có nhớ nhà”.
(Đến Điện Hòn Chén - N.T)
Hiện nay các nhà thơ lại đi sâu vào thơ
hiện đại tự do không vần, thơ văn xuôi. Nhưng cách phối thanh bằng trắc rất hài
hòa nên đọc vẫn mượt mà êm dịu. đó chính là cách sáng tạo trong văn học nghệ
thuật:
“Anh đi rồi
mang hun hút mùa thu
Em như con chuồn chuồn
trong ao không tìm ra cọc đậu
Lá vàng quay đỏ gió
lấn lá màu anh”.
(Hun hút mùa thu
– Minh Hiền
4 – Ngôn ngữ so sánh, liên tưởng
trong thơ
Cách so sánh trong thơ cũng là một nghê
thuật, từ những vế tiểu đối nó nâng chất lượng câu thơ lên rất nhiều. Có nhiều
cách so sánh, so sánh thực tế, so sánh thực tế với trìu tượng, so sánh trìu tượng
v.v…Còn có nhà thơ so sánh từ thị giác sang thính giác “Tóc em dài như tiếng chuông ngân”. Với Trần Đăng Khoa anh lại so
sánh từ cảm nhận sang thị giác
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng
rơi rất nhẹ như là rơi nghiêng”
Để có những ngôn ngữ độc đáo để so sánh
thì người cầm bút phải giàu ngôn ngữ, phải sáng tạo (có thể dùng những từ ngoài
từ điển tiếng Việt, nhưng phải biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt). Cách
so sánh ẩn dụ, hoán dụ, dùng điệp từ, điệp ngữ, nhân cách hoá, tượng trưng, nói
quá, nói giảm…đều cần phải biết vận dụng trong thơ. Một cách so sánh trực tiếp
mà gợi nên sự liên tưởng sâu sắc, rộng mở
“Anh
bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình
yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như
xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình
yêu thành đất lạ hóa quê hương”.
(Tiếng
hát con tàu)
Tác
giả đã cụ thể hóa khái niệm trìu tượng là tình yêu thành những hình ảnh thân
quen gần gũi với con ngời miền sơn cước. Có cái so sánh rất ảo mà rất thật, khiến
ai cũng phải liên tưởng đến cuộc đời mình:
“Vô
tình tôi đứng trước gương
Thấy người trong ấy đáng thương hơn mình”
(Say
N.T)
Với Tố Hữu ông so sánh cái nhỏ với cái lớn
mà rất thật và đẹp “mái tóc em là mây hay
là suối”. Ta cũng có thể bắt gặp sự so sánh ví von tạo hình độc đáo trong
thơ Xuân Diệu: “Tháng giêng ngon như một
cặp môi hồng, Lá liễu dài như một nét
mi, Mây đa tình như thi sĩ ngày xưa, Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ, Mà
tình yêu như quán trọ ven đường…”. Còn với đại thi hào Nguyễn Du thì trên cả
tuyệt vời:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh”.
5 – Tính hướng nội, hướng ngoại của
ngôn ngữ trong thơ
Khác với văn xuôi, thơ chỉ dùng một số ít
ngôn ngữ mà vẫn chuyển tải được hết tâm tư tình cảm của tác giả. Nói ít mà hiểu
nhiều, nói xa mà hiểu gần, nói gần mà hiểu xa. (ý tại ngôn ngoại) hay nói cách
khác phải biết nén từng câu chữ, phải mã hóa câu thơ để có một ngôn ngữ mới,
mang tính đa chiều đa dạng, mà không phải nói dài kể nể tỉ mỉ người đọc vẫn hiểu
được “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu xa thì mới
hay, không phải bất bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá
trị. Ý hết mà lời dừng là cái lời hết mực, nhưng lời dừng mà ý chưa hết thì lại
càng hay” (Hải Thượng Lãn Ông) .
Trong dân gian ông cha ta thường mượn hình
ảnh trăng hoa để nói con người, đó chính là tính hướng ngoại để miêu tả cái thực
tế một cách bóng gió, xa xôi mà tế nhị:
“Trăm hoa đua nở mùa Xuân
Cớ sao cúc lại muộn mằn tiết Thu.
Vì hoa tham lấy sắc vàng
Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu”
(Ca dao)
Với
Xuân Diệu ông dẫn độc giả đi ngoài vào trong, đi từ thiên nhiên đến tình yêu
đôi lứa:
“Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên
đẹp hôm nay sẽ tốt lành
Son
sẻ trời như mười sáu tuổi
Má
hồng phơn phớt, mắt long lanh” .
Trong thơ ngôn ngữ hướng nội nhiều khi
tác giả nói thật ngay tâm trạng của mình như muốn giãi bày, muốn chia sẻ với mọi
người. Đó cũng là một dạng thơ mặt phẳng. nhưng những ngôn ngữ phải được đặt
đúng chỗ của nó thì lại lôi kéo được tình cảm của độc giả: “Anh yêu
em âm thầm không hy vọn/ Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen” (Puskin).
Đặc tính hướng nội và hướng ngoại trong
ngôn ngữ thơ rất cần thiết, bởi những dòng thơ theo chiều mặt phẳng (nghĩ gì viết
lấy) thì nó mất đi phần thi vị, không còn chỗ để độc giả suy ngẫm, không còn chỗ
cho mọi người bình.Vậy câu thơ không còn thấy thú vị nữa. Câu thơ kết hợp được
tính hướng nội và ngoại một cách hài hòa thì thật thú vị:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
(Ca dao)
Rõ ràng là tác giả đi từ ngoài vào đến
trong, rồi lại đi từ trong ra ngoài. Đi từ lá xanh đến bông trắng, từ bông trắng
tới nhụy vàng, rồi lại từ trong ra ngoài, từ nhụy vàng ra bông trắng, rồi đến
lá xanh. Tính hướng nội và hướng ngoại của câu thơ được kết hợp nhuần nhuyễn
làm cho bông hoa đã đẹp còn đẹp hơn, bởi nó đã chứng minh cho bông sen đẹp, rất
trong trắng và tinh khiết. Có những ngôn từ hướng nội làm ta liên tưởng tới bản
chất con người mặc dù những ngôn ngữ ấy rất ảo:“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”chỉ cần một từ “tót” thôi ta đã thấy Nguyên Du ác khấu đến mức nào. Và cũng từ, từ
“nghé” trong câu “Khách đà lên ngựa người còn nghé theo”. “Nghé” chứ không phải là “ghé”. Hai từ đồng
âm đồng nghĩa như từ “nghé” thì ta thấy
nàng Kiều rất đoan trang, hào hoa phong nhã, như đã thể hiện được tứ đức công,
dung, ngôn, hạnh của người con gái. Vậy thì ở đây cụ Nguyễn Du lại rất thơm mồm.
Nhà thơ Minh Hiền đi từ cái ảo hướng ngoại
là những hình ảnh của tháng năm để thể hiện tình cảm của mình, hướng nội thật
khéo:
“Tháng năm gắt gao nắng
lửa
Phượng hồng lên thuở
chơi vơi
Bằng lăng tím đầy nỗi
nhớ
Những bông gòn rơi
rơi”.
Cho nên sự lựa chọn ngôn ngữ trong thơ để
từ hướng nội sang hướng ngoại, từ hướng ngoại sang hướng nội, từ cái cụ thể
sang cái ảo, hoặc từ cái ảo sang cái cụ thể là cả một sự lao động nghệ thuật, lại
là rất quan trọng.
6 – Tính láy lại
và cắt nhịp trong ngôn ngữ thơ
Tính chất láy lại trong thơ để trở thành những
điệp khúc trong thơ cũng rất cần thiết. Khi ngôn ngữ được lập lại thì tính nhạc
trong ngôn ngữ thơ được tăng lên. Nếu
diễn tả câu thơ buồn thì được buồn thêm, khi vui sẽ vui hơn, và lúc mạnh mẽ sẽ
cao trào hơn :
“Khi chén rượi, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”
(Kiều N D)
Ở đây ta gặp 4 từ “khi” chứng
tỏ rằng những con người hào hoa phong nhã họ không thiếu gì những thú vui lành
mạnh. Ta còn thấy câu đầu cắt nhịp 3 - 3 mặc dù câu thơ sai luật (câu 2 phải là
bằng, câu 4 phải là trắc) nhưng khi đọc ta vẫn thấy êm êm. Nếu không cắt nhip
được, hoặc cắt nhip khác khi đọc ta sẽ thấy ngang ngang. Như câu thơ của
Nguyễn Bính “Hôm qua em đi tỉnh về”,
bởi chữ “đi” rơi vào chữ thứ 4 theo
luật phải là trắc. Vậy nên cắt nhịp ngôn ngữ trong thơ cũng rất quan trọng. Kể
cả trong thơ tự do truyền thống nếu ta cắt nhịp không đúng cũng sẽ ảnh hưởng
rất nhiều đến tính nhạc trong thơ. Trong thơ hiện đại, thơ văn xuôi không vần
ngắt nhịp lại rất cần thiết, nếu ta ngắt nhịp đúng chỗ thi giai điệu bài thơ sẽ
rất uyển chuyển, êm ái, người nghe vẫn tưởng như thơ truyền thống, mặc dù câu
thơ dài tới mấy chục từ, thí dụ:
“Giữa Trường Sơn
chân con bước đến mòn đá núi
mẹ ở đâu mà con tìm mãi không ra
chỉ thấy cỏ dại và mùi thơm hoa lá
khói nhang cuộn bay, cay mắt lệ nhòa”.
(Tìm mộ mẹ - N.T)
Một thi phẩm hay bao giờ cũng là sự kết
hợp nhuẫn nhuyễn kỳ diệu giữa ý nghĩa, âm thanh sắc màu, hình ảnh, chữ và nghĩa
một cách chặt chẽ. Tất cả phải hòa quyện với nhau như hình với bóng một cách.
Thơ không phải là một mớ ngôn ngữ lý thuyết lộn xộn, mà phải là một thực thể
ngôn ngữ đã được gọt rũa, chưng cất, để thành một thứ tinh hoa của ngôn ngữ. Thơ
làm ám ảnh lòng người cũng vì vẻ đẹp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ bao gìờ cũng là
hóa công của người cầm bút.
Nghiêm Thản
Trước
tiên tôi muốn phân tích từ: “Cách tân”.
Ta tách hai từ ra để
hiểu nghĩa từng chữ:
- Cách: 格 Theo nghĩa Hán nôm Nghĩa là: Cách thức,
Phương pháp, khuôn mẫu…
- Tân: 新 Theo nghĩa Hán Nôm Nghĩa là mới mẻ, đổi cũ…
Ta ghép lại với nhau
thành một ngữ: “Cách tân”: Ta có thể hiểu là: “Phương pháp làm mới mẻ”. Vậy thì
không cứ phải trong lĩnh vực văn chương, mà trong tất cả mọi vấn đề, mọi lĩnh
vực, mọi cái… Ta đều có thể chuyển đổi làm mới lên được, đó cũng là sự sáng
tạo, cải tiến, cách tân, hay còn gọi là phá cách. Ngôn ngữ là tiếng nói đời
thường của cả cộng đồng cũng cần phải thay mới đổi cũ để phù hợp với trào lưu
của xã hội chúng ta không thể mãi giậm chân tại chỗ được. Với văn chương lại
cần phải cách tân rất nhiều, nhất là thơ. Vì đó là tinh hoa của ngôn ngữ được
chắt lọc từ vị đời.
Nền văn học của Việt
Nam chúng ta chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn học nước ngoài. Nói riêng về
thơ:
- Trước thế XX chúng
ta chịu ảnh hưởng rất lớn của Trung Quốc, nên thơ của chúng ta chủ yếu là thơ
Đường luật
-
Từ năm 1930 đến 1945 do chịu ảnh hưởng của nền văn học phương Tây nên thơ của
các tác giả như Trần Tế Xương, Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Đình
Thi... đã thay đổi rất nhiều. Từ các thể loại thơ Đường đã chuyển hoá thành thơ
tự do 7 chữ rồi 8 chữ đến các thể loại không khuôn khổ, câu dài câu ngắn...
-
Đầu thập niên 1930, văn hoá Việt Nam diễn ra một cuộc vận động đổi mới thơ ca
mạnh mẽ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo.
Cuộc cách tân này đi vào lịch sử văn học với tên gọi “Phong trào Thơ mới”.
Phong trào Thơ mới thu
hút sự quan tâm của đông đảo các nhà thơ. Thơ mới đã thật sự thắng thế và thơ
ca đã bước vào một thời kì mới. Trên thi đàn lần lượt xuất hiện thêm những ngôi
sao và Xuân Diệu là biểu tượng rực rỡ nhất cho những sáng tạo của phong trào
thơ mới.
Tính khuynh hướng của
nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh
hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn
xã hội... Những nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn
thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách
tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa
lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa
mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu,
ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu.
Ý thức về sự đổi thay,
không có gì là vĩnh viễn sẽ dẫn đến một quan niệm khác trong thơ là khẳng định
thực tại, khẳng định hiện tại. Bởi lẽ mọi vật, mọi sự đều biến dời, thì cái
thực tại và hiện tại có ý nghĩa nhất.
- Từ năm 1945 đến 1975
và cho đến nay thơ tự do của chúng ta được cách tân rất nhiều. Hiện nay chúng
ta đã thấy thể loại thơ văn xuôi, thơ không vần đang phát triển.
Trong văn học thời kỳ
này, thơ cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng.
Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân. Thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến
trong thơ cổ điển. Cái "tôi"
bấy giờ không làm việc "tải đạo"
nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định. Và họ đã biến cái tôi
thành cái ta chung cho mọi người.
Còn thơ lục bát thì
cách tân thế nào? Đây mới là sự mạn đàm rất cần thiết. Những năm 60 của thế kỷ
trước từng rộ lên sự đòi hỏi cách tân thơ lục bát, có người ủng hộ, người
không. Nhà thơ lớn Xuân Diệu thì không đồng ý với sự cách tân thơ lục bát,
ông cho câu thơ lục bát đã hoàn chỉnh, đổi mới “chất sống” trong nội dung chứ
hình thức câu thơ không nên thay đổi, nó cũng như làn điệu các bài dân ca, đang
mượt mà lại như nấc lên từng đoạn, mất hết cái đẹp của câu thơ. Tuy nhiên sự
đổi thay của thơ ca nó vừa tuân theo quy luật đời sống vừa theo quy luật của
riêng nó…
Trong sự phát triển,
thơ đương đại luôn trẻ trung vì đã biết sử dụng tối đa sự phong phú của ngôn
ngữ dân tộc - yếu tố thứ nhất của văn học. Nếu thơ tự do ưa dùng một hệ thống
ngôn ngữ siêu nghiệm với nhiều kiểu cú pháp mới để thích hợp với lối tư duy
phức hợp hậu hiện đại, thì thơ lục bát vẫn giữ cho mình nét mộc mạc, bình dân,
với các hình thức chuyển đổi nghĩa bóng bẩy, các lối ví von, cường điệu
thường thấy trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, vẫn thiên về các những câu truyền
thống mở rộng sự dung nạp mới về ngôn ngữ văn chương trên phương diện từ vựng,
dùng nhiều khẩu ngữ, phương ngữ. Trước đây Phạm Đình Toái đã khen ngợi “thơ lục
bát hay không tả hết”, ở thất ngôn thì có hình đối lập nhau, giai điệu uyển
chuyển của thể thơ này. Cái ưu thế về nhạc tính (nhịp điệu, vần điệu và thanh
điệu).
Theo tôi thiển nghĩ
các tác giả sợ bài thơ của mình quá ngắn nên cố tình cắt vụn những câu thơ ra
để bài thơ được thêm dòng, dài hơn. Nếu nói là để nhấn mạnh câu thơ cho người
đọc dễ lại càng không nên. Họ có biết đâu chỉ một cặp lục bát cũng có thể hoàn
chỉnh một bài thơ như bài thơ “Mong”
của Lê Nghiêm chỉ một cặp lục bát cũng đã hoàn chỉnh rồi:
“Em
ơi! Em đã về chưa?
Chim tìm tổ ấm đã thưa, thưa dần!”
Bài thơ chuyển tải
được hai yếu tố khác nhau trong tâm trạng mong của người chồng:
1 - Rất thương người vợ tần tảo sớm khuya. Con chim
còn biết tìm về tổ ấm mà sao vợ mình còn cố làm thêm, tối trời rồi vẫn chưa về
2 - Rất bực mình có
một người vợ hư. Con vật con biết tìm về tổ ấm, mà vợ mình là loại người gì mà
tối trời rồi không biết về với chồng với con. Câu thơ có sự so sánh rất tế nhị.
Nữ nhà thơ Minh Hiền
có bài thơ “Lệch”:
“LỆCH
Sợ
rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa
Sợ mưa bong bóng cứ
đùa
Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi
Lệch mùa trăng sẻ
làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng.”
Với 3 cặp lục bát, nếu
ta tách từng cặp một, thì mỗi một cặp cũng đã hoàn chỉnh đủ nghĩa, rất phong
phú như một bài thơ lục bát 2 câu. Nếu bài thơ này mà cách tân cắt ra từng mẩu,
từng mẩu thì liệu có hay hơn được không? Trong khi mạch thơ như hờn như giận,
như trách móc theo dòng lục bát rất nhuần nhuyễn và mượt mà. Đất nước Nhật Bản
còn có loại thơ “Hai Cư” họ có cắt vụ ra đâu. Nếu Truyện Kiều cụ Nguyễn Du cũng
cách tân theo kiểu này nghĩa là “Trăm năm”
xuống dòng, “Trong cõi” xuống dòng, “người ta” xuống dòng… Thì không hiểu
chuyện gì sẽ sảy ra.
Khi nghe tiếng thơ ta
bắt gặp một giọng ngâm lục bát mượt mà, đi vào lòng người ta thấy thi vị biết
chừng nào, nhưng nếu ta lại đọc câu thơ đó bằng văn bản mà bị cắt vụn ra thì
thương câu thơ lắm vì nó có tội gì đâu, vì thể loại thơ đã bị cách tân thay tên
đổi họ từ lục bát sang tự do. Theo tôi những bài thơ lục bát đã bị cách tân như
thế thì ta không nên gọi đó là bài thơ lục bát nữa, bởi tác giả đã cách tân
thành thể thơ tự do mất rồi.
Người ta cũng thường
nhìn chữ đoán người, một bài thơ mà bị cắt vụn ra từng mẩu, độc giả cũng dễ
hiểu lầm và đánh giá sai về tác giả là con người vụn vặt, ti tiện, hẹp hòi như
những câu thơ. Vậy ta có nên cách tân cho thơ lục bát hay không.
Hơn nữa trên hành tinh
này chỉ có nước Việt Nam mới có thể loại thơ lục bát, chúng ta gọi là Quốc thơ.
Thế thì tại sao ta không trân trọng giữ gìn một di sản bản sắc văn hoá dân tộc
có từ ngàn năm nay.
Nghiêm Thản
Trường ca là một thể loại có đóng góp đáng
kể vào sự phát triển của tư duy thơ Việt Nam hiện đại. Thế nhưng, sự quan tâm
đến nó, cả ở phương diện văn học sử lẫn lí luận, lại có phần muộn mằn lẻ tẻ,
mặc dù có hàng nghìn tác phẩm được ra đời. Cho
đến nay mới chỉ có “Tuyển tập trường ca” (NXB Quân đội nhân dân năm 1997) là
cung cấp được cho độc giả một cái nhìn tập trung về văn bản thể loại này. Như
vậy số lượng trường ca được chú ý ở đây còn ít, lại chủ yếu là các trường ca
sáng tác trong khoảng 30 năm, tính từ Bài thơ Hắc Hải (1955) của Nguyễn Đình
Thi đến Gọi nhau qua vách núi (1987) của Thi Hoàng. “Vùng trường ca” đến nay
vẫn còn nhiều chỗ trống, cần có người tâm huyết lục khảo lại, chọn tuyển công
phu hơn, nhất là thể hiện được cái nhìn khái quát, công bằng hơn nữa về diễn
tiến của thể loại này, để có chỗ đứng như các thể loại khác
Nền văn học của
Việt Nam chúng ta luôn luôn phát triển, song hành cùng với sự phát triển của
ngôn ngữ. Thế kỷ XXI này chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ về văn học trong
đó có thơ ca. Từ thời Trần (Trần Thánh Tông) đã xuất hiện những tao đàn thi ca,
đó chính là những tổ chức hoạt động như các CLB thơ ngày nay. Các CLB được
thành lập mọc lên như nấm từ thành phố tới nông thôn… Đã có làng được HNV Việt
Nam đặt tên là “Làng thơ”, đó là làng Chùa, xã Công Sơn, huyện Ứng Hòa, Hà Nội,
và có không ít những người thơ trở thành hội viên của các hội VHNT, HNV…
Tô Phạm Phú
Xuyên cũng là một người thơ như mọi người khác mà tôi đã gặp, anh đã viết hàng
nghìn bài thơ bằng nhiều thể loại, được mọi người mến đọc. Tôi rất may mắn được
cầm trên tay tập bản thảo trường ca “Ngược
dòng thời gian” của anh. Một điều bất ngờ với tôi là tác giả Tô Phạm Phú Xuyên
lại là một giảng viên trường cao đẳng Công nghiệp in Hà Nội, Đi vào lĩnh vực
VHNT đã là trái nghành trái nghề, cái nghề của anh thật khô khan không hề liên
quan với câu chữ. Chắc anh phải có cái nghiệp trướng về văn chương, và rất đam
mê, yêu lịch sử của Việt Nam như máu thịt mới làm được. Hơn nữa viết thơ dã sử
lại càng khó, bởi nó mang tính chính xác, không thể nói đến chuyện sai. Nếu chỉ
dừng lại ở mảng thơ không thôi thì chỉ là chuyện bình thường, nhưng đây lại là
một trường ca viết về lịch sử các triều đại Việt Nam, phải là một người tâm
huyết lắm mới có một sự nghiên cứu tìm tòi rất công phu như vậy. Anh viết bằng
thể thơ lục bát với độ dài trên 2.000 câu, ngang ngửa với Truyện Kiều của
Nguyễn Du, và Thúy Lan truyện thơ của Lê Hữu Bình. Trường ca, anh viết ngược
dòng lịch sử từ thuở hồng hoang An Dương Vương dựng nước và giữ nước, cho tới
thế hệ Hồ Chí Minh mà không hề thiếu một nhân vật quan trọng nào, lại còn rất
chính xác, đọc tác phẩm này chắc các nhà viết sử và những người nghiên cứu về
lịch sử phải mát lòng mát dạ lắm, bởi họ đã thêm được một người như đồng nghiệp
đi theo con đường của mình đã chọn. Khi viết về lịch sử Việt Nam lại liên quan rất
mật thiết tới lịch sử của Trung Quốc nhưng tác giả Tô Phạm Phú Xuyên cũng không
quên một chi tiết một triều đại nào, một nhân vật nào. Chứng tỏ tác giả rất dày
công nghiên cứu, và đam mê sử học mới lắm chắc về lịch sử Trung Quốc. Trong các
pho sử học của chúng ta không thiếu, các tài liệu rất chính xác và đầy đủ,
nhưng thật khó nhớ, cho nên ta thấy các trường học phổ thông, các thày cô rất
vất vả để các em học sinh nhớ được. Nếu có thể các thầy cô trong trường phổ
thông có được tác phẩm “Trường ca” này khi giảng bài chắc chắn các em học sinh
dễ thuộc bài hơn. Rõ ràng tác giả là một người rất có tâm với xã hội. Để làm
được điều này Tô Phạm Phú Xuyên đã chọn thể thơ lục bát, một thể thơ dễ nhớ, dễ
thuộc, để truyền đạt được những tư liệu quý giá về sử học tới mọi người dễ hơn.
Có thể nói “Trường ca” của Tô Phạm Phú Xuyên là một cẩm lang ngắn gọn dễ thuộc dễ hiểu, để tra cứu về lịch sử Việt Nam.
Thí dụ ta muốn biết về triều Ngô, ta chỉ cần tra mục lục “Ngô Quyền phá quân
Nam Hán” trang 46 là ra:
Đường Lâm mảnh đất địa linh
Sinh ra hai vị anh minh một thời
Phùng hưng vua dũng tuyệt vời
Ngô Quyền
vua giỏi sáng ngời đến nay
……………………………….
………………………………………
Sáu năm bao nỗi đoạn trường
Chưa tròn
mộng ước mà thương cho đời.
Tất cả chỉ 28 câu
lục bát rất dễ thuộc dễ hiểu dễ nhớ ta đã tóm tắt được triều Ngô như thế nào.
Và cứ như thế tất cả các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… Ta soi rất nhanh
và dễ dàng
Đây là một sự
lao động nghệ thuật rất công phu, và tận tụy, chứ không phải đơn thuần là sáng
tác. Nếu chỉ đọc tác phẩm “Trường ca” mà chưa hiểu thân thế sự nghiệp của tác
giả, thì có lẽ ai cũng nghĩ anh là một nhà nghiên cứu về sử học. Với trên 2.000
câu lục bát rất mượt mà, ít lỗi hiệp vần, thất vận, và luật. Chúng ta thật đáng
khâm phục tài năng, kiến thức rộng mở, và trân trọng sự lao động nghệ thuật của
Tô Phạm Phú Xuyên. Sách được NXB - HNV VN cấp giấy phép. Xin Mời các bạn
đón đọc
Ngày 20.01.2018
Nghiêm Thản
MỤC LỤC
MÊNH MANG SUỐI MỠ............................................... 5
MỘT TRANG NHẬT KÝ............................................... 6
VÀO CHÙA.................................................................... 8
TÌM NHAU..................................................................... 8
EM ƠI ANH ĐỢI............................................................ 9
ĐIỀU ANH THÍCH....................................................... 10
CHUYỆN KHÔNG NGỜ.............................................. 12
CỐ QUÊN..................................................................... 14
MỜI TRẦU................................................................... 16
RÉT NÀNG BÂN.......................................................... 16
TÌNH YÊU QUAN HỌ................................................. 17
ANH SẼ VỀ.................................................................. 18
TÓC EM........................................................................ 19
XEM ẢNH.................................................................... 19
VÔ ĐỀ.......................................................................... 20
ĐỢI............................................................................... 20
DƯỚI SÂN TRƯỜNG.................................................. 21
BỜ MÃI SONG ĐÔI..................................................... 22
ANH CHƯA THỂ VỀ................................................... 24