Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019



NHỮNG LỜI BÌNH

NÓI VỚI CONLÀ NHỮNG GIỌT ĐẮNG
CỦA  VIỆT HỒNG
NÓI VỚI CON                                                                                                                                
                   Nghe con nói, nghe con cười
            Thấy hình con giữa khoảng trời xa xôi
                  Vui là vui thế, Thế thôi!
            Thày mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay
                  Bờ sông mưa bụi lắt lay
            Con cò chạm xuống rồi bay phương nào
                  Bây giờ tu những ước ao
            Bây giờ tu cả chiêm bao cuối mùa
                 Giờ quên cả những trò đùa
            Dửng dưng những thứ được thua ở đời
                 Đêm nằm mắt nhắm chơi vơi
            Đồng hồ tí tách giọt rơi thấm màn
                 Nghe con cuốc cuốc kêu khàn
            Lạnh tê một thuở non ngàn trẻ trai
                 Con mình giờ tưởng con ai
            Cháu mình giờ của người ngoài lạ chưa
                Nghe con hát mấy câu thơ
           Vương vào mắt mẹ bạc phơ tóc thày

                                     Tháng chạp Nhâm Thìn

Lời bình:

    Ai sinh con ra mà chẳng muốn con mình được vuông tròn, khỏe mạnh, ngoan ngoãn, học giỏi. thế mà nhà thơ Việt Hồng lại mất tích một đứa con gái vừa tuổi cập kê trăng tròn, do bọn buôn người bắt bán sang Trung Quốc. Cũng rất may mắn cho anh, sau 13 năm viết thơ để tìm kiếm, anh đã tìm thấy được con mình. Nhưng hoàn cảnh thật trái ngang, con anh đã lấy chồng có con ở một vùng trời xa lạ. Tết đến xuân về, nhà nhà sum họp, nhưng anh lại thiếu vắng một đứa con, anh chỉ còn cách nói với con, anh nói với con bằng thơ. Việt Hồng viết bài thơ “Nói với con” bằng thể thơ lục bát ngọt ngào mà sâu lắng.Trên màn hình vi tính anh được nhìn thấy con, anh vui mừng sung sướng nhưng niềm vui chưa trọn vẹn:
                   “Nghe con nói, nghe con cười
            Thấy hình con giữa khoảng trời xa xôi
Nghe con nói đấy, nghe con cười đấy mà thấy xót xa, trong khi cái tết cổ truyền đã đến gần, dập dìu kẻ đi người về, thì con anh lại ở một vùng phương Bắc xa xôi cách trở hàng ngàn cây số. cho nên anh vui thì vẫn vui, mà ruột gan anh nhàu nát. Hơn mười năm, vợ chồng anh, gia đình anh chờ  mong thắc  thỏm từng ngày:      
            “Thày mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay
                  Bờ sông mưa bụi lắt lay
          Con cò chạm xuống rồi bay phương nào!”
     “Bờ sông mưa bụi lắt lay” hay gia đình anh tìm thấy con là một điều mơ hồ, cũng lắt lay như ngọn đèn trước gió khó mà thấy được. “Con cò chạm xuống”, hay con gái anh đã về. Niềm vui được nhân lên khi tìm thấy con; con anh đã về, về thật không phải là mơ. Niềm vui ấy không được bao lâu. Hình ảnh con cò chỉ chạm xuống rồi lại bay đi, cũng như con anh lại phải khăn áo ra đi. Hình ảnh con cò là hình tượng của con anh, anh ví con anh như thân cò, mà đã là thân cò lặn lội thì lấy đâu ra sung sướng. Trong ca dao có câu: “Thân cò lặn lội bờ sông”. Anh dứt ruột, bứt gan để viết nên những vần thơ máu thịt này, anh thành công trong nghệ thuật viết thơ, giầu hình ảnh, biến hình ảnh thành hình tượng. Thế mà anh vẫn phải tu :
                  “Bây giờ tu cả ước ao
            Bây giờ tu cả chiêm bao cuối mùa”.
    Tu theo gốc chữ Hán ()tu có nghĩa sửa, đến cuối mùa rồi, cuối thu rồi, tuổi đã xế chiều rồi mà nhà thơ vẫn tu, anh tu cả những ước mơ, tu cả những chiêm bao mới là lạ, những ước mơ và chiêm bao có cái gì sai để mà sửa. có phải  chăng  những  ước mơ và chiêm  bao được gần gũi con gái của anh không thành, nên anh viết nên những vần thơ chua xót này. Những mất mát những tổn thương làm cho anh :
                  “Giờ quen cả những trò đùa
            Dửng dưng những thứ được thua ở đời
Đêm nằm mắt nhắm chơi vơi
            Đồng hồ tí tách, giọt rơi thấm màn”.
     Xa một đứa con gái duy nhất, anh như người mất hồn, anh quen cả những trò đùa vô bổ, anh dửng dưng với những được thua, những mất còn ở đời. Anh viết thơ hay anh thổn thức bằng thơ. “Đêm nằm nhắm mắt chơi vơi”, qua từ “chơi vơi” ta thấy tâm trạng đau buồn của anh, chơi vơi đồng nghĩa với chới với, chới với không có chỗ vịn, cũng như lửng như lơ vậy. Mắt anh nhắm mà như mở, ngủ mà như thức, tỉnh mà như mơ, anh mơ màng nhớ con. Đêm càng về khuya không gian càng tĩnh mịch, từ tiếng con thạch sùng kêu chặc chặc, đến tiếng mưa rơi, tiếng đồng hồ tí tách đều gợi nên một nỗi buồn não ruột. tiếng đồng hồ trong thơ Việt Hồng nghe tí tách như những giọt sầu, có lẽ không phải là giọt mưa mà là những giọt lệ rơi.Việt Hồng khóc bằng thơ. Thơ của anh thấm ướt cả mùng màn chăn gối, mà con  mình  vẫn  xa  vời  vợi  nơi  phương  trời   xa  lắc. Đêm nằm nhớ con trằn trọc thao thức, anh còn nghe thấy những âm thanh khác lạ như vận vào anh :
Nghe con cuốc cuốc kêu khàn
            Lạnh tê cả thuở non ngàn trẻ trai”
    Nhớ con, vợ chồng anh đã khóc ướt cả chăn gối, hình ảnh con chim cuốc kêu đến khản cả tiếng, hay chính anh đã khóc đến khản cả giọng. Anh như dại như ngây, anh khóc suốt cả phần cuối cuộc đời, tâm hồn anh tê tái, tim anh thắt lại :
“Con mình giờ tưởng con ai
            Cháu mình giờ của người ngoài lạ chưa !”
   Thật xót xa, con gái mình rách ruột đẻ ra, nuôi con đến lúc lớn khôn, không gả, không bán, mà phải xa con biền biệt, còn mà như mất, có mà như không, ai mà không đau lòng. Cho nên anh nghĩ con mình mà tưởng như con ai, cháu mình đích thực con gái mình đẻ ra mà nghĩ như cháu của người ngoài thì thật là chua xót. Câu thơ anh viết mà như dao cứa vào da thịt, như giằng xé ruột gan,  liệu con anh đọc những  dòng tâm  huyết  này có cầm được  nước mắt, có chịu đựng được không? Trên  màn  hình  vi tính cả gia  đình nhìn  thấy con anh, nghe con anh đọc thơ của anh mà thấy nghẹn ngào, nước mắt vợ anh, nước mắt anh, nước mắt mọi người làm mắt nhòa đi, tóc anh bạc thêm ra:
  “Nghe con hát mấy câu thơ
               Vương vào mắt mẹ, bạc phơ tóc thày”
     Mười tám câu lục bát mượt mà, đằm thắm, thiết tha, day dứt, nghẹn ngào của nhà thơ Việt Hồng đúng là viết ra từ gan ruột máu thịt của mình. Những câu chữ không mới mà rất mới, bởi anh biết cách tân nó bằng cách vận dụng đúng chỗ, nên gây nhiều gợi cảm cho độc giả. Thơ anh giầu hình ảnh, những hình ảnh thân quen  không cầu kì lên gân, anh biết biến hình ảnh thành hình tượng sâu sắc dẫn dắt người đọc đến sự chia sẻ tâm huyết, tình cảm của mình. Đó là một thành công của người cầm bút. Phải nói rằng bài thơ: “Nói với con” là một điểm nhấn trong sự nghiệp văn thơ của anh.





ĐẾN VỚI SỰ MẤT CÒN CỦA TÍCH TUẤN
QUA BÀI THƠ “TRÁI TIM”

   TRÁI TIM   
                 
                  Cái còn nó vẫn còn đây
            Bao nhiêu cái mất chất đầy con tim
  Lắm khi chống gậy đi tìm
            Khuấy trong kí ức nổi chìm không ra
  Thôi đừng xáo xới tim ta
            Đất trời đã khéo sinh ra mất còn
  Trái tim múa những nét son
            Họa con chim hót véo von tình đời. 
                                       
                                                    Tích Tuấn

Lời bình:

       Người ta thường nói từ trái tim đến khối óc. Những dự định lớn lao, những kế hoạch ngắn dài, những ước mơ hoài bão, những tính toán mưu sinh v.v… hiển nhiên là sự vận động của khối óc. Nhưng nói đến trái tim người ta  nghĩ ngay đến tình cảm của mỗi con người, phải chăng trái tim cũng biết suy nghĩ, bởi sự buồn vui, hờn tủi, yêu thương, đau khổ, hạnh phúc và căm ghét người ta thường nghĩ đến con  tim. Con tim rung lên khi nhận được tình yêu ngọt ngào, và những lời ân ái, chết lịm con tim khi nhận lấy khổ đau, khắc khoải, tủi hờn khi tình yêu tan vỡ, con tim trở thành chai sạn khi trải qua những mất mát thăng trầm …Con người ta bắt đầu từ lúc chào đời đã biết nhận và cho. Đầu tiên là nhận được ánh sáng, những tinh hoa tinh túy của vũ trụ, của đất trời, nhận được tiếng chim hót lảnh lót trên cành, mầu xanh của lá, mầu hồng của hoa, nhận được mùi thơm sữa mẹ và tiếng à ơi dịu ngọt cùng sự nâng niu trìu mến của người thân. Còn cho ư? Khi chào đời con người ta tưởng như không có gì để cho, nhưng thật nhiều. Cho cha mẹ và mọi người tiếng khóc u oa, cho niềm vui hân hoan sau chín tháng mười ngày chờ đợi, cho cái ngây thơ trong trắng, cho nụ cười mụ dậy nở trên môi... Nhà thơ Tích Tuấn đã cho những gì, nhận những gì, và cái gì còn, cái gì mất. Mở đầu bài thơ ông đã nhận thấy rằng:
            “Cái còn nó vẫn còn đây”
   Phải chăng đây là tiếng nấc cuộc đời, để trái tim thổn thức, khắc khoải, trống vắng, bi thương vì :
            “Bao nhiêu cái mất chất đầy con tim
     Câu thơ rất ảo mà lại thật, khiến người đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Đó cũng là sự thành công  của  người cầm bút khi chuyển  tải tình cảm vào thơ, để câu thơ thêm đậm đà mầu sắc. Bài thơ sinh động lên khi tác giả đặt ra tình huống mất, còn:“Cái còn nó vẫn còn đây”. Thật là trớ trêu, giữa cái còn và cái mất, cái còn  thì còn  mãi  không  bao giờ mất, nó đi theo con người ta đến tận cùng năm tháng của cuộc đời. Cái còn càng nhiều bao nhiêu, thì trái tim lại càng tan nát, day dứt, vò xé, đau khổ, luyến tiếc cái mất bấy nhiêu, muốn đánh đổi cũng không bao giờ đổi được. Bởi nó là những kỉ niệm buồn vui, những chia sẻ vơi đầy, những yêu thương mặn mà nồng cháy trong tim, đã ghi xương khắc cốt, không  bao giờ quên  được. Còn cái mất đã  bay xa vào vũ  trụ tâm linh huyền bí, cho dù một lần, hai lần và nhiều lần, thậm chí đến lúc hơi tàn sức yếu phải  “chống gậy đi tìm”“khuấy” trong ngân hàng “kí ức nổi chìm” cũng không bao giờ thấy được, mà chỉ thấy những  tình cảm yêu thương trìu mến của những ngày xa xưa. Tôi cũng đã từng an ủi vợ một liệt sĩ bằng những vần thơ :
                   “Thôi em đừng đào bới những thiên thu
  Nơi nghĩa địa tìm đâu ra hơi ấm
  Hãy giữ lấy mầu xanh bích ngọc
  Số phận một phần, đông hết phải sang xuân”
                                  ( Sang xuân - Lê Nghiêm )
     Nhưng không thể nào làm vơi đi những nỗi khổ đau đang giằng xé tâm can trong sự mất còn. Cũng như tác giả đau đáu trong lòng khi viết những câu :
Thôi đừng xáo xới tim ta
            Đất trời đã khéo sinh ra mất còn”
    Đó cũng là lời than vãn xót xa, xin đừng ai nhắc đến cái mất mát đau thương không bao giờ níu lại được. Ông cũng tự an ủi mình, vì tất cả như có sự sắp bày của qui luật tạo hóa:
            “Con sông nào cũng đổ về biển cả
            Lá vàng rơi – đâu bão táp dập vùi
            Đời muốn dài nhưng chống sao qui luật
            Dấu chấm than lẫn lộn cả buồn vui ”.
                                       ( Dấu chấm than  N.T )
     Vết thương nào rồi cũng thành sẹo, nỗi  buồn  nào rồi cũng vơi đi. Sau cơn giông tố thì trời lại sáng. Sau những mất mát đau thương hờn tủi trái tim quằn quại giờ lại :       
            “Múa lên những nét son
            Họa con chim hót véo von tình đời”.
          Hình ảnh ngọn bút của họa sĩ vung lên vẽ con chim hót véo von, chính là sức vươn, là tính tích cực của con người. Bức tranh “con chim hót véo von” đó là sức sống của tác giả, sức sống của con người không sợ gian nan, không sợ mất mát.

     Bài thơ viết có hậu, chỉ với tám câu lục bát ngọt ngào, dung dị, đằm thắm, khá nhuần nhuyễn ngôn từ rất đời thường, không cầu kì không lên gân, tác giả đã miêu tả được sự nhạy cảm của con tim . Đó là tình cảm của những con người biết vui, biết buồn, biết hờn biết tủi, biết đau thương và biết vươn lên đỉnh cao của cuộc sống, là “Tiếng chim hót véo von tình đời ”. Cảm ơn nhà thơ  Tích Tuấn  đã cho  độc giả thấy sự thăng trầm chìm nổi của con tim. Xin ông Hãy “giữ lấy những gì ta đã có / Hạnh phúc ngọt ngào có cả máu hồng tươi.





XIN CHIA SẺ VỚI DƯƠNG TÙNG GIANG
Qua bài thơ: “Nỗi đau Đi-ô-xin

NỖI ĐAU ĐI-Ô-XIN

Từ chiều ấy con đi không về nữa
Chẳng ngày nào cha không gọi tên con.

Con chào đời trong tay mẹ bao dung
Con ra đi trong tay cha bất lực
Cha run rẩy vuốt cho con đôi mắt
Con lặng im như đang giấc ngủ sâu .

Cha bàng hoàng gục xuống giữa cơn đau
Chiếc hòm gỗ mầu son rực lên như hòn lửa
Đứng lặng yên vô hồn khô lệ
Cha muốn khóc con dù chỉ một lần .

Hoa trắng héo trên mồ dưới bình minh
Cha vẫn thắp hương cho con mỗi lần trời rạng sáng
Nỗi buồn cứ dài theo năm tháng
Cha vẫn ngồi xuống mỗi cơn đau .


Cha biết đi đâu về đâu
Đành để mặc tim mình quằn quại

Những khoảnh khắc nhớ con ngây dại
Cha vẫn thấy con ngồi học đêm đêm.
Thương con cha lặng im
Nắm mì tôm vẫn để phần cho con ăn đỡ đói
Nhớ con cha thầm gọi
Tên con cha đã đặt từ những năm chiến tranh.

Trong máu lửa cha vẫn mong về cuộc sống yên bình
Mà bây giờ nỗi đau dài theo năm tháng
Cha biết có một ngày cha nằm xuống
Vĩnh viễn -  nhẹ nhàng - bình yên
Sau một cơn đau tim dữ dội .

Kẻ ác chưa một lần kết tội
Nỗi đau đi-ô-xin đè nặng kiếp người
Những mơ ước nhỏ nhoi
Tuổi thơ con vụt tắt.

                  Dương Tùng Giang

Lời bình:

     Tôi rất may được tác giả Dương Tùng Giang cho xem tập bản thảo, và được tặng tập thơ “Dòng sông vẫn chảy
sớm hơn mọi người do NXBVH ấn hành năm 2012. khi đọc đến bài: “Nỗi đau đi-ô-xin” Tôi thật sự xúc động.  Khi sinh con ra, ai chẳng muốn vuông tròn. Nhưng tạo hóa thật cay nghiệt, trời đất thật không công bằng: “con chào đời trong tay mẹ bao dung” rồi con lại “ra đi trên tay cha bất lực”. Có nỗi đau nào đau hơn thế! Những người lính khi ở chiến trường họ phải hứng chịu bao gian nan thử thách để giành lấy hai tiếng hòa bình. Nhưng chớ trêu thay, khi chiến tranh kết thúc, họ trở về với quê hương làng xóm, với mái ấm tình thương của mình, họ còn đau khổ hơn nhiều – cái nỗi đau nó giằng xé tâm can, đeo đẳng đi theo suốt cả cuộc đời, dằn vặt tâm hồn theo năm tháng… Bởi cái chất đi-ô-xin chết người kia đã ngấm sâu vào từng thớ thịt, từng tế bào từng giọt máu của người lính. Lúc xây dựng gia đình, hạnh phúc nào bằng khi nghe tiếng à ơi, thế mà những đứa trẻ sinh ra nó có tội gì đâu mà “bà mụ” lại lỡ tay nặn ra méo mó hình hài, đầy mình bệnh tật. Dương Tùng Giang anh viết cho riêng anh, anh viết cho những người lính cùng chung số phận với anh, kể cả những người lính Mỹ:
            “Cha bàng hoàng gục xuống giữa cơn đau
            Chiếc hòm gỗ mầu son rực lên như mầu lửa
            Đứng lặng yên mắt vô hồn khô lệ
            Cha muốn khóc con, dù chỉ một lần”.
     Thơ Dương Tùng Giang giản dị mà như khía vào những nỗi đau chiến tranh chưa thành sẹo của những người lính không may mắn. Hình ảnh chiếc hòm gỗ mầu son lạnh ớn kia, lại hóa thành hình tượng những ngọn lửa chiến tranh cứ âm ỉ đốt cháy mãi cuộc đời. Những người lính như anh muốn khóc khi mất một đứa con, nhưng không sao khóc được, bởi từ lúc sinh con ra, họ đã âm thầm khóc quá nhiều rồi, họ bất lực trước “Nỗi đau đi-ô-xin”,nên họ còn đâu nước mắt nữa để mà khóc. Những dòng nước mắt ấy đã hóa thành mạch lệ ngầm chảy ngược vào tim.
    Là cha, là mẹ, ai không muốn sinh con ra được lành lặn, khỏe mạnh. Có nỗi đau nào đau hơn những người lính mang trong mình cái chất độc đi-ô-xin quái quỉ ấy. Sinh con ra nuôi con đấy, yêu con đấy, thương con dứt ruột, đứt gan, mà vẫn phải chờ một ngày không mong muốn! Vẫn cầu nguyện cho con mình kéo dài thêm sức sống. Những vòng hoa trắng vẫn đè lên nấm mộ, rồi héo dần trong những buổi bình minh, và “cha vẫn thắp hương cho con mỗi khi trời rạng sáng”Đó là những nỗi đau đớn, xót xa suốt cả cuộc đời :
 “Cha biết đi đâu về đâu
            Đành để mặc trái tim mình quằn quại”
   “Nỗi đau đi-ô-xin” là một bản cáo trạng tố cáo cuộc chiến tranh vô cùng bẩn thỉu và dã man của đế quốc Mỹ gây ra, trời không dung, đất không tha. Tòa án đâu sao không minh sét, để Dương Tùng Giang phải gào thét lên:
            “Kẻ ác chưa một lần đền tội
             Nỗi đau đi-ô-xin đè nặng kiếp người
             Những mơ ước nhỏ nhoi
             Tuổi thơ con vụt tắt”.
      “Dòng sông vẫn chảy”.Thơ anh vẫn chảy, cho dù nỗi đau này đeo đẳng suốt cuộc đời anh, và những người lính như anh. Xin chia sẻ cùng anh qua bài thơ “Nỗi đau người lính”.

 NỖI ĐAU NGƯỜI LÍNH

Vợ chồng ai chẳng muốn vuông tròn
Anh lên đường làm trọn việc nước non
Trí làm trai không bao giờ nợ nước
Thân làm gái vẫn một dạ sắt son.



Anh trở về khi Mỹ ngụy đã tan
Hết chiến tranh chưa hết cảnh điêu tàn!
Đất nước đã hoàn toàn giải phóng
Anh ôm em xiết chặt vào lòng.

Hạnh phúc riêng anh chẳng nhiệm mầu
Ôi Hỡi trời! anh có tội gì đâu
Mà vợ sinh con thành dị tật
Thiếu chân, thiếu mắt, lại to đầu

 Ôi! Chiến tranh sao lại hóa kéo dài
Tội ác này xin hỏi tại ai?
Tòa án đâu sao không minh xét
Đứa trẻ sinh ra cũng một kiếp người.

Ôi! Nỗi đau như dao cắt vào lòng
Những ước mong, khát khao và sung sướng
Cháy ruột gan, tất cả thành vô vọng
Thành mạch lệ ngầm chảy ngược vào tim .

                                               Nghiêm Thản





SỰ CHỐNG CHẾNH CHÔNG CHÊNH
LÀ “KHOẢNG LẶNG” TRONG THƠ
NỮ SĨ HỌ BÀNH

                  KHOẢNG LẶNG
           
                  Không anh chống chếnh chông chênh
             Nắng hiu hắt nắng, ngày mênh mang ngày
                 Đêm về tay nắm bàn tay
            Bóng buồn lẻ bóng, héo gày chờ mong
                 Đông về lòng vắng hoang lòng
            Người xa, xa mãi khuất trong xa mờ
                 Thôi đành vịn lấy câu thơ
            Gửi tình vào chốn mộng mơ một mình
                 Nép vào khoảng lặng vô hình
           Mình riêng, riêng một cỗi tình xa xôi…

                                   Bành Phương Lan
 
Lời bình:

     Đọc tập san Thi đàn bình thơ Trường Xuân tập 1 tôi bắt gặp bài thơ: “Khoảng Lặng” của nhà thơ Bành Phương Lan. Tôi nghĩ trong cuộc đời dài ngắn của mỗi con người, ai cũng có lúc trống vắng, chơi vơi, thiếu hụt, lẻ loi, lặng lẽ, cô đơn. Đó chính là “khoảng lặng” Có cái “khoảng lặng” nhẹ nhàng, man mát chờ đợi, có những “khoảng lặng” lạnh đến ớn người, bởi cái “khoảng lặng” ấy nó kéo dài như vô tận. Với mười câu lục bát ngọt ngào, đằm thắm, thiết tha, da diết, dường như tác giả đã thấu hiểu được những riêng tư của người phụ nữ, chị đã cho độc giả thấy một “khoảng lặng” mênh mang dài dằng dặc, đó là sự mất mát chống vắng cô đơn của người đàn bà. Từ tình yêu đôi lứa đến tình cảm vợ chồng, như nhà thơ N.T đã viết:
                 “Rất hạnh phúc khi cả nhà sum họp
            Thiếu một người cơm bữa chẳng thấy ngon”
                                         (Mong N.T)
Bành Phương Lan, chị chia sẻ những mất mát, xót xa, trống vắng, hụt hẫng của những mảnh đời không may mắn:
                  “Không anh chống chếnh, chông chênh    
             Nắng hiu hắt nắng, ngày mênh mang ngày”.
    Trong tình yêu khi hai tâm hồn đã hòa làm một, hai thể xác đã trộn vào nhau, thì với họ chỉ là một nửa, mà đã thiếu đi một nửa thì sao mà không “chống chếnh”. Nhưng câu thơ của Bành Phương Lan không dừng lại ở hai từ “chống chếnh” mà còn “chông chênh” nữa kia. Tất cả mọi thứ, cho đến tình cảm con người khi đã rơi vào thế “chông chênh” thì thật là nguy hiểm. Chưa đủ, nỗi trống vắng ấy còn như tia nắng yếu ớt “hắt hiu” sắp tắt, như ngày cứ “mênh mang” dài mãi ra. Qua những từ láy “chông chênh, hắt hiu, mênh mang”, và những cụm từ “nắng hiu hắt nắng, ngày mênh mang ngày, bóng buồn lẻ bóng, lòng vắng hoang lòng”. Ta thấy chị đã thừa hưởng được những tinh hoa của Nguyễn Du trong truyện Kiều: “Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao / Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng”. Chứng tỏ nhà thơ đã dùng nghệ thuật viết của mình để diễn tả sự mất mát, xót xa, trống trải, lẻ loi cô đơn khi người thân của mình đã vắng bóng. Những nỗi buồn ấy như giằng xé, bào gọt tâm can, cắt vào từng thớ thịt từng tế bào:
                  “Đêm về tay nắm bàn tay
            Bóng buồn lẻ bóng, héo gày chờ mong
Câu thơ của Bành Phương Lan làm cho cái“khoảng lặng” ấy càng buồn đến não ruột. Để người phụ nữ phải day dứt, dằn vặt đến nỗi ngày như  dài  thêm  ra,  đêm  thì  trằn  trọc không ngủ được, bàn tay lúc sấp, lúc ngửa nắm chặt lại, miên man suy nghĩ. Con người chỉ còn là cái bóng héo gày mà vẫn chờ mong một điều như vô vọng. “Khoảng lặng” ấy cứ đi theo suốt cả cuộc đời:
                  “Đông về lòng vắng hoang lòng
            Người xa, xa mãi khuất trong xa mờ”.
     Mùa đông là mùa của những đôi chim câu tha rác về làm tổ. Không có mùa đông tìm đâu ra hơi ấm, tìm đâu ra ngọn lửa đỏ tình yêu. Nhưng mùa đông trong cái “khoảng lặng” của Bành Phương Lan thì tê tái lạnh buốt như kem, “lòng vắng hoang lòng”, nhà như rộng thêm ra, bởi “người xa, xa mãi khuất trong sương mờ”. Dường như số phận của mỗi con người đều được sắp đặt, tất cả mọi việc đều đi đến kết thúc, vết thương nào rồi cũng thành sẹo, nỗi buồn nào rồi cũng vơi đi. Bành Phương Lan, chị an ủi nhân vật của mình bằng cách “thôi đành” và “vịn lấy câu thơ” để mà sống, thầm lặng “gửi tình riêng” của mình vào “chốn mộng mơ”. Nép mình vào nơi góc khuất của cuộc đời, nơi “khoảng lặng” của thời gian như vô hình để chèo chống với thử thách của cuộc đời. Chỉ với năm cặp lục bát ngọt ngào đằm thắm thiết tha, bài thơ không dài mà chuyển tải được tình cảm của những người lẻ bóng cô đơn thật đầy đủ. Nhà thơ đã dùng  những  ngôn ngữ đời thường, rất gần gũi  nhưng  lại  rất đắt , bởi chị đã biết đặt đúng chỗ của nó, để dẫn độc giả hiểu sâu hơn nội dung của bài thơ. Phải nói rằng bài thơ “khoảng lặng” là một trong những dấu chấm son trong sự nghiệp thơ văn của chị. Chúng tôi những độc giả rất yêu thơ chị đang chờ những bài thơ hay hơn. Chúc chị may mắn, có nhiều cảm xúc.





“NỖI ĐAU MANG MẦU DA CAM” - VẾT SẸO
KHÔNG LÀNH CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH


               NỖI ĐAU MANG MẦU DA CAM
              (Kính tặng những người lính
                  nhiễm chất độc da cam )
              
                 Con trai!
              Thế là nhà ấy đẻ con trai!
Những lời chúc  đầy ba gian nhà nhỏ
             “Thằng cha ấy thế mà số đỏ
Bộ đội về, vợ muộn, đẻ con trai”
Anh chạy quanh vòng trong, vòng ngoài
Vừa tiếp khách, vừa nhận lời mừng, chúc
Trong ánh mắt một nỗi đau uẩn khúc
Chốc chốc lại hướng về phía buồng trong.

Người mẹ trẻ ôm chặt con vào lòng
Tiếng nấc nghẹn, nước mắt rơi lã chã
Hai bàn tay kéo vội vàng chiếc tã
Để dấu đi những khuyết tật trên mình
Của thằng con trai chị vừa mới  sinh
Như chẳng muốn ai nhìn thấy nó                               
      Đậy lại niềm hy vọng của dòng họ    
      Đang mong có người nối dõi tông đường...
        
      Người lính ấy, năm xưa đi chiến trường
      Nỗi đau này, làm tim anh hoá đá
      Ôm vợ con trong tay, cố không gục ngã
      Trận mưa bom hoá chất năm xưa, bỗng hiện về
      Chất độc da cam cả đơn vị đều chia...

      Anh rùng mình, rồi lại nhìn thằng bé
      Con trai ơi! tha lỗi cho cha nhé
      Chiến tranh mà, cha nào muốn đâu con
      Cha ra đi chiến đấu vì nước non
      Mong ngày về, một gia đình yêu dấu
      Mơ ước ấy, đã được đổi bằng máu
      May mắn hơn những người bạn đã hy sinh
      Cha được trở về sống giữa thời bình
      Nỗi đau chiến tranh lại hiện về qua con trẻ
      Chẳng bao giờ thành một người đàn ông
      Thằng con trai sẽ mãi còn thơ bé
      Một dòng họ không người nối dõi tổ tông...
      Nhân loại ơi! Nỗi đau này còn mãi...   

                                           Bành Phương Lan

    Lời bình:  

    Chiến tranh đi qua, những người lính trở về được trọn vẹn là một điều rất may mắn. Có biết bao người đã ngã xuống, vĩnh viễn gửi xương thịt của mình nơi rừng sâu núi thẳm, những người may mắn hơn thì thiếu hụt một phần của cơ thể, hoặc tàn phế, hoặc mang trong mình một thứ chất độc chết người, để lại những di chứng  quái quỉ cho đến tận các đời sau. Những mất mát ấy là những nỗi đau nó đi cùng năm tháng theo suốt cả cuộc đời người lính.
   Nhà thơ Bành Phương Lan đã chia sẻ nỗi đau ấy với những người lính không may mắn qua những vần thơ đầy thông cảm, chị đau chung với những nỗi đau như giằng xé tâm can, như muối sát vào lòng, khi mọi người  mừng nhầm cho số phận của mình :
 “Thằng cha ấy thế mà số đỏ
              Bộ đội về, vợ muộn, đẻ con trai”.
    Những người lính khi rời quân ngũ trở về với quê hương, làng xóm, xây dựng hạnh phúc gia đình, ai mà không mừng, nhất là lại nghe tin vợ đẻ con trai. Ai sinh con mà không muốn được vuông tròn. Nhưng trớ trêu thay, có đau xót nào bằng chính  những lời chúc vui, lời mừng ấy lại như dao cứa vào da thịt, mũi dao nhọn, mũi kim châm  trích vào tim. Bởi đứa trẻ sinh ra đâu có phải là một hình hài trọn vẹn, mà chỉ là một đống thịt không hồn. Trong ánh mắt của người lính không dấu được những nỗi đau uẩn khúc:
           “Chốc chốc lại hướng vào phía buồng trong
           Người mẹ trẻ ôm con chặt vào lòng
           Tiếng nấc nghẹn, nước mắt rơi lã chã”.
    Người phụ nữ họ có tội gì đâu, những năm tháng đợi chờ dài đằng đẵng, người yêu đi biền biệt bao khao khát, thời gian ấy, quãng đời ấy họ đo bằng tuổi thanh xuân hăng say nhịp sống của mình, thế mà cái thiên chức được làm mẹ như thế này đây:
          “Hai bàn tay kéo vội vàng chiếc tã
          Để dấu đi những khuyết tật trên mình
          Của đứa con trai chị vừa mới sinh”.
     Đứa trẻ được đầu thai nó có tội gì mà tạo hóa lại lỡ nặn ra một hình hài méo mó, khó chịu. Liệu đứa trẻ ấy có trở thành một con người được không? Hay suốt đời sống như thực vật làm khổ mẹ khổ cha, làm khổ những người thân, còn nói đâu đến nối dõi tông đường. Thơ của Bành Phương Lan đã làm cho trái tim của những người lính mang trong mình chất độc Đi-ô-xin, vốn đã chai sạn, càng thêm chai sạn  hơn :
            “Người lính ấy năm xưa đi chiến trường
             Nỗi đau này là tim anh hóa đá
             Ôm vợ trong tay cố không gục ngã”.
     Trái tim các anh hóa đá, hay trái tim các anh đang quằn quại trước nỗi đau như cấu xé từng thớ thịt, từng tế bào trong cơ thể, như gọt dũa gan ruột mình, nó theo các anh đeo đẳng suốt cuộc đời, mà còn kéo dài mãi sang những thế hệ sau. Thơ của nữ sĩ họ Bành rùng mình, hay các anh rùng mình trước tội ác man rợ đến ghê tởm của bọn giặc Mĩ xâm lược, đã dùng những kiến thức khoa học hiện đại không phục vụ con người, mà còn hủy diệt tất cả mọi sinh vật đến tận cùng không lối thoát. Chị đã kêu lên:
              “Nhân loại ơi! Nỗi đau này còn mãi”.
    Cái nỗi đau này còn mãi, bởi những di chứng nó kéo dài sang những đời sau. Theo phong tục của người Á Đông, không có con trai để nối dõi tông đường lại là một trong những điều bất hiếu, mà đứa trẻ sinh ra có thể vẫn sinh hoạt bình thường nhưng lại mất đi cái thiên chức của người đàn ông, trong khi cả gia đình mong mỏi, cả một dòng họ mong mỏi. thế mà nỗi đau ấy đã :
            “Đậy lại niềm hy vọng của dòng họ
             Đang mong có người nối dõi tông đường”
    Cái chất độc ghê người ấy không phải đem đến cho riêng những người lính “xấu số” mà cho vợ, cho cho gia đình, cho cả dòng họ. Hàng trăm dòng họ có thể bị tuyệt tự do cái chất độc đi-ô-xin chết người kia:
  “Thằng con trai sẽ mãi còn thơ bé
                    Chẳng bao giờ thành một người đàn ông
  Một dòng họ không người nối dõi tổ tông”.
    Thử hỏi có nỗi đau nào xót xa hơn, có tội ác nào lớn hơn thế, kẻ ác chưa một lần đền tội, tòa án đâu sao không minh xét.
       “Nỗi đau mang màu da cam” là một tác phẩm hiện thực, một di phẩm để muôn đời con cháu mai sau biết đến, một bản cáo trạng đanh thép tố cáo giặc Mĩ xâm lược của Bành Phương Lan. Mặc dù câu thơ chưa được mượt mà, còn kể lể dài dòng chưa cô đọng. Nhưng chị cũng đã chia sẻ được những đầy vơi, những mất mát xót xa của những người lính không may mắn, đó cũng là tính nhân văn trong thơ của chị. Chúc chị giầu cảm xúc hơn để có những vần thơ hay hơn nữa.




TA CÙNG ĐẾN “NƠI ẤY”-
NƠI HỘI TỤ TINH HOA NGÔN NGỮ, 
ĐƯỢC CHẮT LỌC TỪ VỊ ĐỜI CỦA  VIỆT HỒNG

NƠI ẤY   

Trong quán nhỏ chúng tôi ngồi tâm sự 
Trò chuyện với thơ, trò chuyện với đời
Ngồi cạnh tôi có một người con gái
Mới thoáng nhìn đã cất được lời ca.

Em hồn hậu như hoa
Không dị ứng sắc màu quá khứ
Em vô tư như như lịch sử
Không tù túng tình yêu và lẽ vợ chồng.

Em phá vòng “Kim cô”nhỏ hẹp
Tung cánh chim bay lượn giữa trời
Tần tảo sống và tần tảo mơ mộng
Tìm kiếm trong đời người mình thích mình yêu .
Mắt em xanh một khoảng trời xanh mới
Vừa xa xăm, lại vừa gần gũi
Vừa da diết lại vừa lơ đãng

Chứa trăng sao bão táp cuộc đời .

Em như thần Vệ Nữ trong thơ
Mà thơ không viết nổi
Giữa ồn ào thật giả
Sang hèn, hoa lệ, hắt hiu.

Tôi ngắm bạn, ngắm em
Mới biết mình nghèo
Nghe em đọc câu thơ của bạn
Vời vợi nhớ thương nơi ấy chân cầu
Nước mắt tràn ra tắm nỗi đau
Chảy vào câu thơ bỏ ngỏ
Tôi lặng im
Lắng nghe
Tiếng tình yêu
Phát ra từ miệng chén
Thơm mùi men rượu…Từ em.

                                Việt Hồng - 10 - 2009


Lời bình:

    Nhân đọc bài thơ “Nơi ấy”của Việt Hồng, tôi lại nhớ đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương, đã một thời có một quán thơ. Ngày nay Việt Hồng anh có “Nơi ấy”, Nơi ấy” chính là cái quán nhỏ thân thương mà nhà thơ hay lui tới, là nơi hội tụ những tinh hoa của ngôn ngữ được chắt lọc từ vị đời. nhưng “Nơi ấy” của Việt Hồng không hạn hẹp trong cái quán nhỏ kia, mà có thể là nơi: “Em hẹn anh đến dưới chân cầu / Nơi tình yêu bắt đầu từ ngô lúa”, (Lê Nghiêm) hoặc là nơi: “Nước mắt tra ra tắm nỗi đau /chảy vào câu thơ bỏ ngỏ”(Lê Nghiêm) Từ “Nơi ấyViệt Hồng đã bắt gặp một tâm hồn người con gái:
            “Hồn hậu như hoa
            Không dị ứng sắc mầu quá khứ”
    Cái mà nhà thơ gọi là “sắc mầu quá khứ” kia, chính là sự mặc cảm, sự áp đặt, những lời đàm tíu, những thói quen đã thành tục lệ của lễ giáo phong kiến, trút lên đầu người phụ nữ. Nhà thơ đã nhìn thấy một người con gái có bản lĩnh, biết chấp nhận, biết chớp nhanh cái khoảnh khắc thời gian quí giá, biết đấu tranh để giành lấy tình cảm riêng tư của mình trong cuộc sống. Đấy là những tâm hồn trong sáng họ biết trách nhiệm và bổn phận của mình là làm vợ, làm mẹ, biết thương chồng thương con để hướng tới một cuộc sống tự do và hạnh phúc, không chịu tù túng về tình yêu và lẽ sống vợ chồng.
     Bài thơ “Nơi ấy” chính là một bài phóng sự của Việt Hồng, anh có cái nhìn rất tinh tế sâu thẳm vào cuộc sống đời thường của một văn nghệ sĩ, thông qua hình ảnh người con gái ta đã thấy được ít nhiều cái chân thật của mỗi con người. Cái mà nhà thơ gọi là “vòng kim cô nhỏ hẹp” kia chính là một lối sống ích kỷ, một áp chế vô lí, thiếu tự do, không công bằng mà người phụ nữ, người vợ phải thiết thòi, phải hứng chịu. Thơ anh lên tiếng đấu tranh cho những người vợ, cho phụ nữ. Bởi trong đời thường tại sao có những cái người chồng có mà người vợ không có, người chồng được mà người vợ không được. Nhà thơ đã nhìn thấy sự bứt phá tự thoát ra khỏi những ràng buộc vô lí ấy :
        “Em phá vỡ vòng “Kim cô”nhỏ hẹp
          Tung cánh chim bay lượn giữa trời”. 
     Khi đã tới một chân trời mới, một không gian mới, tâm hồn sẽ thanh thản, tư tưởng thoải mái hơn, yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Việt Hồng như nhìn thấy được tâm hồn của cô gái đang hưởng thụ những giây phút tự do:
Mắt em xanh một khoảng trời xanh mới
 Vừa xa xăm lại vừa gần gũi
Vừa da diết lại vừa lơ đãng
            Chứa đựng trăng sao bão táp cuộc đời”.
    Cô gái như chim sổ lồng “Giữa những ồn ào, thật giả, sang hèn, hoa lệ, hắt hiu” náo nhiệt của cuộc sống. được hưởng những phút tự do, cô thấy mình hạnh phúc nhưng cũng rất âu lo. Nhà thơ Việt Hồng, anh vẫn biết trong cái vòng luẩn quẩn kia, cô gái cũng như người phụ nữ, người vợ luôn bị ràng buộc tù túng suốt đời họ phải:
             “Tần tảo sống và tảo tần mơ mộng
        Tìm kiếm trong đời người mình yêu mình thích”
    Việt Hồng là nhà thơ đa sầu đa cảm, anh biết thông cảm cho những người phụ nữ những người vợ luôn tần tảo với chồng với con, mà đến cả mộng mơ cũng phải tảo tần thì thật là quá thiệt thòi. Phụ nữ luôn là người chịu thiệt thòi, lẽ ra cần phải bù đắp nhiều cho họ mới phải. Những ham muốn, những khát khao tình cảm riêng tư, họ đều phải dấu kín trong lòng. Bởi họ luôn bị trói chặt trong cái vòng “Kim cô nhỏ hẹp”ấy. Anh thương cho những người không thoát ra khỏi nơi tù túng ấy mà thấy :
            “Vời vợi nhớ thương nơi ấy chân cầu
            Nước mắt tràn ra tắm nỗi đau
            Chảy vào câu thơ bỏ ngỏ”.
    Đúng là thơ và đời, Việt Hồngngắm bạn, ngắm em” mà thấy lòng mình tui tủi và mới biết mình nghèo. Anh không nghèo tiền nghèo bạc, mà anh thấy lòng mình trống trải, bâng khuâng. Có lẽ còn bao người khác cùng chung số phận như anh, chưa thoát khỏi ra cái vòng “Kim cô” luẩn quẩn kia. “Nước mắt anh tràn ra tắm  nỗi đau” và đang “chảy vào câu thơ bỏ ngỏ”. Anh đang “lặng im, lắng nghe tiếng tình yêu” thủ thỉ. Lắng nghe hơi thở của đời thường, không gian nhộn nhịp mà bình yên. Chúng tôi đang đợi những trang thơ đằm thắm, thiết tha như thế này của anh. Chúc anh viết hay hơn.





“THÁNG BA VỚI TÔI” LÀ NỖI BUỒN MAN MÁC                                              CỦA  NHÀ THƠ MINH HIỀN

          THÁNG BA VỚI TÔI                             

           Một mình, tháng ba ở lại bên tôi!
           Hoa Tigôn trước nhà đỏ hồng lên ba mảnh
           Xác hoa gạo bên đường dựng thành một cảnh
           Cánh rụng, đài rơi, thương lắm hoa ơi.

           Vẫn biết cạn ngày tôi cúi xuống nhặt chơi
           Cánh hoa nhạt nhòa trên tay tôi im như thóc
           Tháng ba âm u, mưa dầm dề như ai khóc
           Nặng trĩu triền sông hoa cải chẳng phất phơ.

           Trăng tháng ba như thực, như mơ
           Rẽ vào lối xưa, đâu thơm nồng hoa nhãn
           Mẹ ở nơi nào mà lạc bầy chim nhạn
           Thảng thốt bay rồi, thương lắm tháng ba ơi!

           Không gian này như thể chơi vơi
           Con tìm mẹ trong muôn vàn thương nhớ
          Nụ bòng bòng xanh xanh e ấp
          Cầu ao mùa này chẳng còn mẹ giữa tháng ba!
                                                     
                                                      Minh Hiền

   Lời bình:

    Trái đất mình thật đẹp, Việt Nam rất đẹp. Thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước ta có bốn mùa : Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa đều có sắc thái riêng của nó. Bốn mùa ấy đã đi sâu vào tâm thức của mỗi con người, các nghệ nhân cũng đã từng khắc họa lên những bức tranh bốn mùa ấy như: Tứ quí: Tùng, cúc, trúc, mai… Nữ sĩ Minh Hiền lại khắc họa lên một tháng ba rất đẹp, nhưng  phảng phất nỗi buồn man mác.
Ngay cái tên của bài thơ, nó đã mang một nét buồn riêng rồi, “Tháng ba với tôi”, hay tháng ba của riêng tôi, chắc tác giả có điều gì đó rất riêng... Tháng ba là tháng của cuối mùa xuân, nên với mọi người thì ít nhiều còn mang hương vị của mùa xuân lễ hội. Như nhà thơ N.T cũng đã viết về tháng ba, giọng thơ anh rất vui, nghe như mùa xuân đang phơi phới, mà còn ngan ngát thơm của tiết giao mùa :
            “Trong vườn xuân hoa tranh hạ cánh
            Góc sân nhà đã hết nắng hanh
            Chỉ còn thấy vương đầy hương bưởi  
            Hoa xoan bồng bềnh lớp lớp rơi”.
                                                  ( Tháng ba )
    Nhà thơ Minh Hiền đã vẽ một bức tranh tháng ba phảng phất một nỗi buồn  bằng  một  loài  hoa,  nghe tên loài hoa ấy người ta đã cảm thấy buồn rồi. Đó là hoa Tigôn, một loài hoa còn có tên là “hoa tim vỡ”, đây cũng là nghệ thuật của người cầm bút, bởi trong tiết tháng ba còn có rất nhiều các loài hoa, nhưng Minh Hiền lại chọn loài hoa này, thì thật là khéo léo:
           “Hoa Tigôn trước nhà đỏ hồng lên ba mảnh
    Chưa đủ, trong tháng ba của nhà thơ còn có hoa gạo, hoa cải. Hoa gạo thì không mang một nỗi buồn gì, nhưng cánh hoa rơi tơi tả trong thơ thì thật buồn:
          “Cánh rụng, đài rơi thương lắm hoa ơi!
           Vẫn biết cạn ngày tôi cúi xuống nhặt chơi
           Cánh hoa nhạt nhoà trên tay tôi im như thóc”.
    Cánh hoa đã rụng, cánh hoa còn nhạt nhoà, im lìm như thóc thì buồn lắm. Cánh hoa rụng là lẽ đương nhiên rồi, nhưng còn đài rơi, đài hoa đã rơi thì lấy đâu ra kết trái. Đó là cái rất logic của Minh Hiền để tạo nên một nỗi buồn trong thơ, một nỗi buồn êm êm, nhẹ nhàng man mác. Qua những từ “xác hoa”, “nhạt nhoà”, “im như thóc” đã chứng minh được điều đó. Thời tiết thay đổi là lẽ tất nhiên, trong tháng ba của Minh Hiền còn có cả mưa, và trăng :
 “Tháng ba âm u, mưa dầm dề như khóc
            Nặng trĩu triền sông, hoa cải chẳng phất phơ
 Trăng tháng ba như thực như mơ”
    Những giọt mưa rơi tí tách, những ngày mưa dầm dề đều tạo nên những cảnh buồn buồn. Hình ảnh hoa cải trong thơ của chị cũng vậy, im lặng như tờ không còn phất phơ bay như trước nữa, “nặng trĩu triền sông” hay nặng trĩu một nỗi buồn. Mưa buồn là vậy, hoa cải buồn là thế, còn trăng nữa, Minh Hiền lại đưa trăng vào tháng ba cũng là một nghệ thuật viết, vì tháng ba đâu phải mùa trăng, cho nên trăng trong thơ của chị cũng rất buồn, “như thực như mơ”, mờ mờ ảo ảo, đâu như trăng của Hàn Mặc Tử :
  “Ta hẵng đưa tay choàng trăng đã
            Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi”.
                                               (Say trăng )
     Trong cái tiết cuối xuân ít người viết thơ buồn như Minh Hiền, có lẽ trong tâm trạng nhà thơ có nhiều điều uẩn khúc, thơ của chị buồn man mác như nàng Kiều của Nguyễn Du trong tiết thanh minh :
  “Sè sè nấm đất bên đường
            Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
                                         (Truyện Kiều)
     Đọc đến đoạn cuối của bài thơ ta lại thấy xuất hiện hình ảnh chim nhạn, mà lại là chim lạc đàn tìm mẹ có lẽ    Minh Hiền đã  hé mở cho độc giả biết vì sao mà buồn:
 “Mẹ ở nơi nào mà sao lạc bầy chim nhạn
            Thảng thốt bay rồi, thương lắm tháng ba ơi!”     
    Chim nhạn bay về là báo hiệu mùa xuân tới, và khi chim nhạn gọi nhau bay đi cũng là lúc mùa xuân đã cạn. Đọc đến đoạn kết ta mới hiểu ra những nỗi buồn  ấy chính là thiếu vắng một người thân đó là mẹ :
          “Con tìm mẹ trong muôn vàn thương nhớ
           Nụ bòng bòng xanh xanh e ấp nở
        Cầu ao mùa này chẳng còn mẹ giữa tháng ba”. 
   Bài thơ “Tháng ba với tôi” đã được đăng tải trên tập san: Thi đàn thơ Trường Xuân tập 2. Lời thơ mượt mà đằm thắm thiết tha, giọng thơ rất con gái, mạch thơ liền không rời rạc, giầu hình ảnh, được chọn lọc. Bài thơ viết rất có kỹ thuật, cả bài thơ chị cứ tả cảnh, cảnh thật đẹp mà buồn, độc giả chưa hiểu được vì sao mà buồn, chỉ có hai câu kết cuối cùng ta mới vỡ lẽ ra nỗi buồn ấy chính là nhớ mẹ, thiếu vắng người thân. Đó là một thành công của người cầm bút. Chúc chị viết nhiều hơn, chúng tôi đang đợi những bài thơ hay hơn nữa.
                                    



MÙA HOA CẢI” HAY NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI
           
       MÙA HOA CẢI

       Ai gieo vạt cải ven sông
Vàng hoa đợi ánh trăng trong bên cầu
      Sáng qua khăn áo chửa nhàu
Thoắt thôi, giờ đã ngấu màu vàng dưa!

      Ngọt ngào người hái sớm trưa
Trổ ngồng, xối xả dỗi mưa bão hờn
      Đất cày lên những thiệt hơn
Giờ trơ gốc lá, vàng hồn ngọn hoa
      Mải mê gieo khúc tình ca
Hạt mầm tức tưởi như là quặn đau

      Em ngây vụng dại thuở đầu
Rồi sương chan mắt đẫm mầu hoa ơi !
      Thẩn thơ nhặt nắng vàng rơi
Để ai quẩy mất một thời xuân xanh. 

                                       Minh Hiền


      Lời bình:  
    
     Thiên nhiên ưu đãi cho đất nước mình thật kì diệu, một năm có bốn mùa rõ rệt, mỗi mùa lại có sắc thái riêng của nó, có những loài hoa thật đẹp. Mỗi lần tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, khoe sắc toả hương, hoa trong nhà, hoa ngoài ngõ, hoa trong vườn, hoa ngoài đồng. Trong tiết thanh minh tháng ba, quanh nhà còn đang vương đầy hương chanh hương bưởi, hoa xoan tim tím ngan ngát đưa hương rơi rụng bồng bềnh đầy lối ngõ, những dậu cúc tần len lúm vấn vít vàng rực  bờ ao, thì nhà thơ Minh Hiền lại thấy mầu vàng hoa của những vạt  cải đẹp đến nao lòng :
    “Ai gieo vạt cải ven sông
            Vàng hoa đợi ánh trăng trong bên cầu”
Tác giả đặt câu hỏi “Ai gieo vạt cải ven sông” có thể là sự sửng sốt trước cái đẹp của thiên nhiên, cũng có thể là sự ngậm ngùi cay đắng luyến tiếc một cái gì rất đẹp đã mất đi, hay một sự liên tưởng từ vạt cải đến số phận của một con người. Chị xây dựng hình tượng mầu vàng tươi tắn của hoa cải đợi “ánh trăng trong bên cầu” thật đẹp. hai mầu vàng ấy mà quyện vào nhau thì còn gì để nói. Phải chăng đây là hai tâm hồn còn đang trong sáng tươi trẻ hồn nhiên, căng tràn sức sống như muốn vươn lên, ngậm vào nhau để xây đài hạnh phúc. Nhưng cũng trớ trêu thay cuộc đời của mỗi con người, đâu phải lúc nào cũng  tuân theo ý nghĩ riêng của mình. Thời gian là một sự thay đổi khôn lường mới:
      “Sáng qua khăn áo chửa nhàu
 Thoắt thôi, giờ đã ngấu mầu vàng dưa!”
    Ta lại bắt gặp cái mầu vàng ở đây, không phải là mầu tươi vàng của hoa cải, ánh vàng của trăng, mà là mầu “ngấu vàng của dưa” một thứ đồ ăn được chế biến từ cây cải, sắp sửa bị nẫu ra khi đã “ngấu”. Đây là lối viết rất độc đáo của Minh Hiền, một sự so sánh tế nhị mà logic. Từ cây cải còn đang mơn mởn tươi xanh, ví như người con gái còn đang trong trắng trinh nguyên như “khăn áo chửa nhàu” phơi phới sức xuân, mà chỉ “thoắt thôi” đã trở thành một người đàn bà nát ngấu như dưa, dầm trong cái chát đắng của muối mặn cuộc đời. Cái hay ở đây là dưa lại bắt đầu từ cây cải. Cải biến thành dưa, hay con người đang yêu không được yêu, không được lấy người mình yêu, phải dứt tình để rẽ bước sang ngang, để rồi bị vùi dập. Đấy là chưa nói đến tình yêu đôi lứa là sự thổn thức của hai con tim, không trộn được vào nhau thì họ khổ đến nhường nào, có ai hiểu được nỗi lòng người đang yêu. Hình tượng cây cải biến thành dưa không phải dừng ở chỗ đắng cay chua xót trước một cuộc tình tan vỡ, mộng không thành của tình yêu đôi lứa. Nếu như các liền anh liền chị ở nơi kinh Bắc họ tự nguyện hy sinh tình yêu riêng tư của mình để đến với nghệ thuật hát quan họ, lại đi một nhẽ. Tác giả còn nói lên được cái hủ tục đầy mầu sắc phong kiến trút lên đầu người con gái, khi “cha mẹ đặt đâu  con ngồi đấy” Cũng có thể là sự “tức tưởi” vội vàng của các cô gái khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Vậy thì tứ thơ ở đây lại mang đầy tính nhân văn. Chị thông cảm cho số phận người phụ nữ như hạt mưa sa. Mười hai bến nước biết chọn bến nào, ví như số phận cây cải được định đoạt do tay người hái :
 “Ngọt ngào người hái sơm trưa
            Trổ ngồng, xối xả dỗi mưa bão hờn” 
   Câu thơ được tác giả đưa vào hướng ngoại, để diễn tả tâm trạng người con gái lúc bước vào đời. Cây cải được gieo trồng rồi trổ ngồng ra hoa nhưng không được kết hạt nhân giống. Cho dù bàn tay của người hái có “ngọt ngào” đến mấy, thì ngồng cải vẫn bị vùi dập đến “xối xả dỗi mưa bão hờn”. Sự hờn dỗi ấy là kết quả của cái thiếu chín chắn nông nổi dại khờ để rồi:
 “Đất cày lên những thiệt hơn
            Giờ trơ gốc lá vàng hồn ngọn hoa”
    Cuộc đời như những luống cải bị cày xới lật tung lên, xáo trộn, đau đớn, gốc rễ trơ ra, quằn quại để đến nỗi “vàng hồn ngọn hoa”. Cho dù cái vỏ bên ngoài đầy đủ sung túc nhưng tâm hồn thì vàng vọt, héo tàn. Mầu vàng ở đây nghe đến rợn người. Đâu còn thấy cái mầu vàng tươi mươi của hoa cải phất phơ trước gió, mà chỉ là cái úa tàn nham nhở của cuộc đời, rồi ân hận, xót xa hối tiếc:
                  “Mải mê gieo khúc tình ca
            Hạt mầm tức tưởi như là quặn đau”.
     Sự hối tiếc bao giờ cũng song hành với muộn màng, rồi dằn vặt vò xé tâm can. Lúc son trẻ thì “mải mê gieo khúc tình ca" . Gieo biết bao nhiêu mộng mị, ước mơ hoài bão, tương lai. Trước ngưỡng cửa cuộc đời, không riêng gì các cô gái như chim mới tập chuyền còn non nớt, dại khờ ngây thơ mà “tức tưởi” vội vàng  thì khó tránh khỏi được vập ngã. Từ hình ảnh cây cải, tác giả hướng ngoại xây dựng một hình tượng người con gái mới bước vào đời. Đến khổ cuối Minh Hiền lại hoàn toàn hướng nội dẫn người đọc đến nội dung cốt yếu của bài thơ, không còn là hình ảnh cây cải nữa, mà chính thực con người, một con người lầm bước thiếu tự tin, không bản lĩnh:
                 “Em ngây vụng dại thuở đầu
            Rồi sương chan mắt đẫm mầu hoa ơi!
 Thẫn thờ nhặt nắng vàng rơi
            Để ai quẩy mất một thời xuân xanh” 
     Chỉ vì một chút ngây thơ vụng dại mà đưa đẩy cuộc đời sang một bước ngoặt. cuộc đời gió mưa chan đầy nước mắt.
    Đọc thơ của Minh Hiền ta thấy chị có cách ghép từ thật tinh tế để câu thơ trở nên rất thơ, chuyển tải được nhiều hàm ý mà gọn gàng xúc tích. Ba từ : “ngây, vụng, dại” nếu ta tách ra đó chính là sự ngây thơ, vụng về, và dại khờ. Cách tu từ và nhân cách hóa của chị thật nhuần nhuyễn để câu thơ đã hay còn đẹp, dễ hiểu. Diễn tả người ta khóc, mà như “sương chan đẫm mắt”, những giọt lệ như những giọt sương. Trong thơ của Minh hiền còn có hoạ, đây chính là một bức tranh cô gái đang ngồi khóc thật đẹp. Cũng như Nguyễn Du tả nàng Kiều khóc khi gẩy đàn cho Kim Trọng nghe khúc: “Chiêu Quân cống Hồ” :
 “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
            Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu”
                                            (Truyện Kiều)
    Bởi khi Kiều khóc thương nàng Chiêu Quân, thì nước mắt làm nhòa đi, nên nhìn ngọn đèn mờ ảo không còn tỏ nữa, và nước mắt được lau khô thì nàng Kiều nhìn ngọn đèn lại tỏ, quả là một tài thơ. Minh Hiền khóc cho những số phận không may mắn, trách mình rồi lại trách người. Nếu vững vàng, bản lĩnh, không xốc nổi, đừng dại khờ, đừng ngu ngơ thì ai có thể “quẩy mất một thời xuân xanh” của mình đi được.
    Với mười bốn câu lục bát khá nhuần nhuyễn, mượt mà đằm thắm thiết tha, da diết. Bài thơ giầu hình ảnh, ngôn từ chắt lọc, ý thơ đa chiều đa dạng, nhiều hàm ý, nhiều cung bậc, lời thơ réo rắt, khắc khoải, ai oán, lúc thăng lúc trầm như những nốt nhạc buồn. Câu thơ đã hay còn đẹp, cấu tứ chặt chẽ, bố cục mạch lạc, mở bài như pháo nổ, kết luận như chuông ngân. Nhà thơ Minh Hiền có cách nhìn sâu thẳm vào xã hội và con người, chị đã chia sẻ cùng độc giả, và cũng là lời cảnh tỉnh cho những cô gái đang đứng trước ngã rẽ, ngưỡng cửa cuộc đời. Đây cũng là điểm nhấn trong sự nghiệp văn chương của chị. Xin chúc chị nhiều thành công.










“BÓNG QUÊ” – NỖI NHỚ QUÊ DA DIẾT
               Của Minh Hiền

      Tháng mười phảng phất vào đông
Vàng hoe rang ngọn rơm đồng heo may.

     Thu về khe khẽ khẽ lao xao
  Chiều buông se lạnh ngậm vào heo may.

     Bến sông đó, con đò đây
Bãi dâu xưa để tơ nay rối bời.

     Đâu rồi cái tuổi nằm nôi?
  Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm nồng

     Ngụp chan! Cha vớt lũ giông
   Tràn đê con nước bập bồng bóng em.

    Nợ bà đỏ miếng trầu têm
  Ông đi buồn đến ngả nghiêng đông về.

     Mảnh trăng cong cả câu thề
         Trong mây diều trải bóng quê đẫy chiều.

   Lời bình :

     Trong mỗi chúng ta, ai cũng có một vùng quê thân thương, để khi đi xa mà thương mà nhớ. Một vùng đất có mùi sữa mẹ thơm thơm, có mồ mả tổ tiên ông bà, ông vải, có những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi ấu thơ. Nhà thơ Đỗ Trung Quân anh nghĩ “Quê hương là chùm khế ngọt”, “Ai đi xa cũng nhớ nhiều”.Với Minh Hiền lại là một chuỗi những kỷ niệm đầy vơi, sâu sắc, từ cái rất gần đến cái xa xăm của tuổi ấu thơ. Cái gần nhất đối với chị là những ngày cuối năm , những lần sum họp trên quê hương mình:
“Tháng mười phảng phất vào đông
            Vàng hoe rang ngọn rơm đồng heo may”
     Tháng mười là tháng gặt hái thu lượm của người nông dân. Với Minh Hiền như phảng phất mùi thơm của rơm, màu vàng của thóc, cái hanh hao của gió heo may, cái nắng “vàng hoe” yếu ớt của tiết giao mùa cũng đủ “rang” khô cho rơm lên đống , cho thóc vào bồ. Từ thời điểm “Tháng mười phảng phất vào đông” chị lại ngược thời gian đến với mùa thu thật đẹp, mà dịu dàng:
  “Thu về khe khẽ lao xao
             Chiều buông se lạnh ngậm vào heo may”
Thu về thật êm ả, thật nhẹ nhàng, chỉ “khe khẽ lao xao” thôi. Tiếng gió lao xao hay tiếng lá rơi xào xạc? Có lẽ đây là tiếng thu rơi. “Chiều buông” xuống làm ta “se lạnh” hay lòng người “se lạnh”? Nhưng lại “ngậm vào heo may” thì thật là đẹp. Tôi còn nhớ một câu thơ của Việt Hồng đã viết :
            “Bình minh bừng thức dậy
            Cành liễu còn ngậm sương”
     Ngậm có nghĩa là không nhả, giữ lấy. Từ “ngậm” ở đây không có ý nghĩa hơn thiệt được thua, mà là một sự níu kéo giàng buộc liên kết với nhau. Cái “se lạnh” của tiết thu mà “ngậm vào heo may” thì còn có gì đẹp hơn thế, câu thơ đẹp như một bức tranh trìu tượng mùa thu. Cái liên kết ấy với tác giả còn nhiều day dứt:
                  “Bến sông còn đó, con đò còn đây
            Bãi dâu xưa để tơ nay rối bời”
     Bãi dâu, bến nước, con tằm là những thứ quên thuộc, thân thương gắn bó của nhiều miền quê. Đi xa, xa mãi chưa về, thì lòng người cũng rối bời như câu thơ của Minh Hiền. hình ảnh “ bãi dâu” và “” tằm thật đẹp, là tình cảm đầy vơi níu kéo, giàng buộc lẫn nhau, giữa quê hương đất nước với người xa xứ. Lúc sinh thời Nguyễn Du khi đi xứ, nhớ đến người yêu, nhớ quê hương còn gửi gắm tình cảm của mình vào trang Truyện Kiều :
   “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
                                                         ( Truyện Kiều )
     Từ sợi tơ tằm còn làm vương vấn đến tình cảm của tác giả, nói gì đến những kỷ niệm thời ấu thơ, chị lục tìm trong ngân hàng ký ức để nghe lại tiếng ầu ơ của mẹ:
                  “Đâu rồi cái tuổi nằm nôi?
            Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm nồng”
     Tiếng mẹ ru hời, tiếng võng đưa kẽo kẹt đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi con người đất Việt. Mỗi khi nghe thấy lời ru, ta thường nhớ đến mẹ nhớ đến quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Minh Hiền nhớ đến “Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm nồng” thì không thể không nhớ đến cha, người đã sinh thành ra mình:
                  “Ngụp chan! Cha vớt lũ giông
            Tràn đê con nước ngập tràn bóng em
     Người cha thường là trụ cột của gia đình. Bao nhiêu những công  to việc lớn nặng nhọc, vất vả gian khó đều một tay người cha gánh vác. Kể cả những lúc “Ngụp chan! Cha vớt lũ giông” để mang lại sự yên ấm hạnh phúc của gia đình. Trong thơ Minh Hiền ta thường gặp những từ ghép chưa có trong từ điển tiếng Việt. nhưng vẫn chuyển tải được nội dung. Ở đây chị dùng từ “ Ngụp chan” nếu đứng một mình thì rất khó hiểu, đọc cả câu ta vẫn hiểu mà còn thấy hay nữa. Nếu ta tách ra thì từ “ngụp”đồng nghĩa với ngập, ta thường nói ngụp đầu, ngập đầu, ngập đầu ngập cổ. Còn từ “chan”, ta thường nói chan hòa; chứa chan; chan đầy, chan chan, chan đầy nước mắt... Vậy Minh Hiền cho ta thấy người cha của mình thật vất vả, phải ngập đầu, ngập cổ với những khó khăn gai góc, chống chèo cuộc sống “lũ giông”, mà cha còn “chan”  cả nước mắt nữa, bưng bát cơm mà ngập tràn nước mắt. Nghĩ về mẹ về cha là vậy, tác giả không quên nhắc đến ông bà:
 “Nợ bà đỏ miếng trầu têm
              Ông đi! Buồn cả ngả nghiêng đông về
     Nói đến nợ, trong mỗi con người chúng ta ai cũng mắc nợ. Nợ kinh tế, nợ tình cảm, nợ bạn bè, nợ tình yêu, nợ ông nợ bà, nợ cha nợ mẹ, nợ quê hương…Nợ nước. với Minh Hiền lại “Nợ bà một miếng trầu têm”. Chị “nợ bà một miếng trầu têm” hay chị nợ quê hương mình, người thân của mình. Nợ tiền thì trả được, nợ tình cảm thì thật là khó, thơ của chị như day dứt những món nợ đời. Theo qui luật của tạo hóa, lá vàng nào rồi cũng rơi về cội, chưa đến mức độ phải “ngả nghiêng”, chỉ là một nỗi buồn man mác, nhưng đây vẫn là tình cảm và tấm lòng của tác giả đối với người thân. Quê hương là hồn cốt của mối con người. Với Minh Hiền lại là một điều sâu lặng :
                  “Mảnh trăng cong cả câu thề
            Trong mây diều trải bóng quê đẫy chiều
     Mảnh trăng cong hay câu thề cong , câu thơ vừa hay vừa đẹp. Hình ảnh trăng là hình tượng của phái đẹp, mà câu thề bị uốn cong đi thì tác giả còn vương vấn , còn nợ quê hương nhiều lắm cho dù “cánh diều”của chị “trải bóng quê” đến “đẫy chiều” .
     Với mười bốn câu lục bát nhuần nhuyễn, tác giả cắt làm bẩy khổ, mỗi khổ chuyển tải một ý khác nhau. Cái khéo của tác giả là dẫn dắt người đọc từ cái cận đến cái viễn, rồi lại để độc giả nghĩ đến từ cái xa đến cái gần, như câu ca dao : 
                  “Trong đầm gì đẹp bằng sen
            Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
                  Nhụy vàng bông trắng lá xanh”
     Tác giả nào đó đã đưa độc giả thưởng thức từ bên ngoài là lá xanh, đến cái trong trắng thuần khiết là cánh hoa bông trắng, rồi mới tới cái tận cùng sâu thẳm tinh túy là nhụy vàng. Rồi từ nhụy ra ngoài tới lá xanh. Bài thơ tưởng như chưa có kết, bởi tình cảm của chị còn đang dàn trải, đã cho ta thấy tình cảm của chị hòa chung với tình cảm của độc giả, chị đã biến cái tôi của mình thành cái ta của mọi người. Đó là thành công trong sự nghiệp văn thơ của mình.

                                                                        Hà Nội - 10 - 10 – 2013          





MỘT CUỘC TÌNH ĐẸP QUA THI PHẨM
LẶNG LẼ CUỐI THU

Em lặng lẽ bên anh…
Trong nồng nàn hhoa sữa
Em đi tìm một miền đất hứa
Tìm một nơi chỉ có hai người…

Không ồn ào chỉ hoa sữa rơi rơi
Tìm một chút bình yên chim hót
Trời cuối thu hương cốm bay ngòn ngọt
Nhìn mắt nhau sao vẫn thấy cay nồng.

Cuộc đời này còn ý nghĩa gì không?
Sao đầy những bon chen đố kị
Nói với nhau những điều phi lí
Cho nhẹ lòng lấp khoảng trống mênh mông.

Thu qua rồi trời sắp sang đông
Qui luật tự nhiên nào ai cưỡng nổi
Trong lặng lẽ ngàn lời muốn nói
Chỉ hoa sữa thơm nồng nói hộ hai ta.

                                  Vũ Thị Minh Thu

    Lời bình:

      Tình yêu thật muôn sắc muôn mầu. Khi hai con tim đã cùng chung nhịp đập, hai tâm hồn đã lẫn vào nhau, thì cái gì cũng chộn rộn xốn xang. Tất cả hết thảy đều đẹp. Họ yêu nhau như khờ như dại, như mơ. Có người “Quá nửa cuộc đời vẫn chửa biết yêu / Mà chỉ được yêu trong vòng tay ân ái” (Lê Nghiêm). Nhưng khi đã biết yêu thì tình yêu mới thánh thiện làm sao. Họ “không chinh phục / không giành giật / không cầu mong / không ham muốn / cho dù là điều nhỏ nhất” (Lê Nghiêm). Có người “Lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu” (N.T), mà họ sống với nhau thật hạnh phúc đến trọn đời. Lại có người cùng trang lứa trinh trắng không yêu, đi yêu người đã có gia đinh để trở thành kẻ thứ ba, để rồi khổ đau, để rồi dằn vặt. Thật là rắc rối. Có lẽ chỉ có những cuộc tình dang dở không thành, họ chôn chặt tận đáy lòng, cứ thế… Cứ thế… Mới thật là đẹp.
    Trong “Lặng lẽ cuối thu” của Vũ Thị Minh Thu tác giả đã thêu dệt nên một cuộc tình đẹp như mơ, cuộc tình không thành, để suốt cuộc đời luôn nhớ đến nhau, tìm đến nhau để được cùng nhau đi “Trong nồng nàn hoa sữa”, tìm lại những kỉ niệm xưa, tìm lại “Một miền đất hứa”, nơi có những lời thề, “Không ồn ào hoa sữa rơi rơi” “một chốn bình yên chim hót”, rồi “Nhìn mắt nhau sao vẫn thấy cay nồng” , lặng lẽ bên nhau không nói nên lời. bởi những lời muốn nói ra biết đâu là những lời dằn vặt của con tim còn đang thổn thức, hoặc những lời trách khứa nhau để rồi càng thêm đau khổ. Họ có biết đâu khi đến được với nhau thành vợ thành chồng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Bát đũa nào mà chẳng có lúc xô. Vợ chồng suốt đời không bao giờ bất hoà mới là chuyện lạ.
     Bài thơ “ Lặng lẽ cuối thu” Vũ Thị Minh Thu viết theo lối tự sự, chị như kể lại một một cuộc tình. Từ “Em” như một nhân vật trong truyện. “Em lặng lẽ bên anh”, chắc hẳn em còn yêu anh nhiều lắm, khi em đã có chồng. Người chồng lại không phải là cái mẫu của nhân vật “em”, bới :
             “Cuộc đời này còn ý nghĩa gì đâu ?
             Sao đầy những bon chen đố kị
     Cái “Khoảng trống mênh mông” là cái nuối tiếc, cái dằn vặt con tim của người luôn nhớ đến mối tình đầu. Nhưng  “Nói với nhau những lời phi lí”và những bức xúc, bon chen, những đố kị dù là của gia đình hay xã             Nói với nhau những lời phi lí
             Cho nhẹ lòng lấp khoảng trống mênh mông”.
hội thì làm sao mà cho “Cho nhẹ lòng”được. Câu thơ đọc qua tưởng như vô lí, bởi những điều tiêu cực kia chỉ có làm cho ta thêm khó chịu. Nhưng có ai hiểu được cái “khoảng trống mênh mông”đến vô tận của người đang yêu mà không được yêu. Vậy nên “Nói với nhau những điều phi lí” và những câu chuyện phiếm là để lấp đi cái “ Khoảng trống mênh mông”của người si tình đang còn tiếc nuối, lại làm cho vơi nhẹ lòng mình thì lại là có lí“Thu qua rồi” hay cuộc đời đã đến lúc xế chiều mà vẫn ấp ủ một mối tình. “Trời sắp lại sang đông” hay con người sắp về nơi thiên cổ. Câu thơ như lời an ủi bởi “Qui luật tự nhiên nào ai cưỡng nổi”. Họ lại đi bên nhau, có lẽ hai tâm hồn vẫn còn tươi trẻ lắm. “Trong lặng lẽ ngàn lời muốn nói / Chỉ hoa sữa thơm nồng nói hộ hai ta”rằng chưa bao giờ em hết yêu anh.
     Bài thơ có 4 khổ 16 câu viết theo thể tự do, không reo vẫn, mà ta vẫn thấy rất êm rất ngọt, bởi giọng thơ của Vũ Thị Minh Thu mượt mà giầu nhạc điệu, đây là yếu tố quan trọng của người cầm bút mà tác giả đã có được. cấu tứ chặt chẽ, thể thơ tự sự mà tránh được kể lể, những câu thơ chỉ để độc giả suy ngẫm, ngay tên bài thơ “Lặng lẽ cuối thu” cũng đã chứng minh được điều đó, lặng lẽ cuối mùa thu, hay lặng lẽ lúc tuổi đã cuối thu? Và cũng là “CÓ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ” để thương.

                                               Hà Nội ngày 02 - 3 – 2014  




TIẾNG GỌI CON “MINH HIỀN ƠI!”
HAY TIẾNG LÒNG THỔN THỨC

MINH HIỀN ƠI!

                 Má thương con lắm Hiền ơi!
Bỗng dưng gió giật, đất trời đảo điên
      Con là con gái có duyên
Tài hoa chẳng kém, dịu hiền dễ thương
      Tưởng rằng mộng đẹp vấn vương
Ngờ đâu xã hội nhiễu nhương lan tràn
      Thôi con đừng rút ván sàn
Còn người còn lụy - nẻo đàngcòn phơi
      Coi như không gặp trên đời
Vô duyên một đoạn, nụ cười héo hon
      Để lòng thanh thản sớm hôm
Cứ vui con cháu, chẳng hờn giận ai
      Đời người ngắn lắm con ơi!
Vui câu lạc bộ thảnh thơi đánh cầu
      Tội người, người chất nặng đầu
Ra đi sẽ hối, qua cầu sẽ rơi
                   Đừng buồn nữa nhé! Hiền ơi!
Cứ vô tư, cứ nghỉ ngơi…Mặc người

                             Hoàng Hiệp 06h/21/10/2007     

     Lời bình:

     Dường như con người ta sinh ra đều có số phận, số phận như được an bài. Có những người suốt đời hưởng vinh hoa phú quý, có người cả đời long đong lận đận nghèo túng, có người “đứt gánh giữa đường” để nửa cuộc đời sống cô đơn hiu quạnh, lại có người kinh tế đầy đủ mà không đủ đầy, bởi trong lòng héo khô thui chột…Nhất là phận con gái mười hai bến nước, biết bến nào đục bến nào trong. Có người mẹ người cha nào sinh con ra, khi tác hợp thành thân cho con lại muốn con mình khổ hạnh. Tất cả họ đều muốn cho con mình được sung sướng, hạnh phúc, vui vẻ an nhàn. Nhưng trớ trêu thay, cái gọi là “số phận con người” lại thường không theo ý muốn con người. Và thế rồi phó thác mặc đời, hoặc rẽ ngang tìm bến mới, mà chắc gì bến mới đã hay hơn. Tạo hóa sinh ra như một mớ bong bong, mà có lẽ thế mới thành xã hội.
     Nhà thơ Hoàng Hiệp viết mười tám câu lục bát, là những tiếng kêu đứt ruột, dứt gan, ngay đề tài bài thơ bà đã thảm thiết gọi con “Minh Hiền ơi!”. Có người mẹ nào mà không xót xa đau đớn khi thấy con mình hoạn nạn. Thương con bà như nấc lên đau đớn :
                  “Má thương con lắm Hiền ơi!
            Bỗng dưng gió giật, đất trời đảo điên”
     Đất trời đảo điên, hay lòng bà điên đảo? Phải chăng đây là cú sốc lớn với con gái bà. Qua từ “Bỗng dưng” ta thấy hoàn cảnh xẩy ra không hề bình thường, một sự thay đổi đột ngột. Cái đột ngột ở đây lại là “Gió giật, đất trời đảo điên”. Cách dùng hình ảnh hướng ngoại của nhà thơ, làm cho độc giả nghĩ đến một sự tàn phá đến ghê gớm. Cái hay ở cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ, khiến độc giả liên tưởng từ hướng ngoại đến hướng nội là sự đổ vỡ, rạn nứt của hạnh phúc gia đình, mà con gái bà đâu phải là con người hèn kém, hư đốn, đần độn gì cho cam:
                  “Con là con gái có duyên
            Tài hoa chẳng kém, dịu hiền dễ thương”
     Thành ngữ có câu “Nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống chẳng ai bằng mình”. Con gái bà, bà nuôi bà biết, đâu phải tự nâng cao phẩm giá. Đây là bài thơ tả thực, tự sự theo chiều mặt phẳng, một trang nhật ký viết bằng thơ. Nhân vật Minh Hiền con gái bà ngoài đời quả là một cô gái có duyên, hào hoa phong nhã, dịu hiền, nết na, dễ thương dễ mến, dễ gần, đẹp người đẹp nết. Một cô gái được dậy dỗ trong một gia đình nề nếp gia phong, có đủ tứ đức“Công dung ngôn hạnh” của người con gái. Cô có chuyên môn giỏi trong nghiên cứu sinh học, được nhiều người yêu mến. Cô còn là một nhà thơ được nhiều người trong giới văn học ngưỡng mộ thế mà:
                  “Thân em như giếng giữa đàng
            Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”
                                                                 (Ca dao)
     Có lẽ Minh Hiền con gái bà là một trong những cô gái xấu số. Cô như cái giếng trong sạch, lẽ ra phải được nâng niu giữ gìn như một kho báu, thế mà còn có kẻ phàm phu tục tử chà đạp lên nhân phẩm cô một cách phũ phàng. Có ai biết được chữ ngờ, tạo hóa đã đặt bày. Nhà thơ Hoàng Hiệp cũng như bao bà mẹ khác, “Tưởng rằng mộng đẹp vấn vương”. Nhưng có “Ngờ đâu xã hội nhiễu nhương lan tràn”. Bà xót xa con gái bà, nhưng con gái bà cũng chỉ là một trong những nạn nhân của thời mở cửa. Với tư cách của một người mẹ đầy tính nhân văn bà vẫn khuyên con bà:
                  “Thôi con đừng rút ván sàn
            Còn người còn lụy - nẻo đàng còn phơi”.
     Hình ảnh “Rút ván sàn” bà khuyên con “đừng rút” đâu phải phó mặc cuộc đời buông trôi, con người bà thật phúc hậu, bà vẫn nghì rằng “Còn người còn lụy” và cái thật vẫn là sự thật cái gì đến nó sẽ đến, cái gì đi nó sẽ đi. Những kẻ bất nhân thất đức “Coi như không gặp trên đời”. Nói là vậy nhưng câu thơ khắc khoải như dao cứa vào lòng:
            “Vô duyên một đoạn, nụ cười héo hon”.
     Người mẹ nào đẻ con ra, nuôi con khôn lớn khi thấy con mình quằn quại mà không đau đớn xót thương. Tác giả tự trách mình một cách vô cớ, dằn vặt tâm can, lời thơ thổn thức như hối hận điều gì, chỉ “Vô duyên một đoạn” rồi để sợi tơ hồng thành mớ bòng bong, để “Nụ cười héo hon” méo mó với những ngày còn lại. Câu thơ dung dị như lòng mẹ, đầy tình nhân hậu che chở con mình, bà khẽ an ủi khuyên con:
            “Để lòng thanh thản sớm hôm
            Cứ vui con cháu chẳng hờn giận ai
                  Đời người ngắn lắm con ơi!
            Vui câu lạc bộ, thảnh thơi đánh cầu”.
     Đời con người ta sống có ích tính trung bình có sáu mươi năm. Cái gì mất đã mất cái gì còn vẫn còn, có những cái tồn tại không dùng được cũng cần coi như đồ phế thải :
            “Ta hãy giữ  những gì ta đang có
            Ta vứt đi những thứ không cần dùng”.
                                                   (Luân hồi N T)
     Hãy cứ sống vui, sống khỏe với con với cháu, chia sẻ buồn vui cùng bè bạn, chính là liều thuốc bổ thần tiên, và là khoảng trời riêng của mình. Những vần thơ cuối bài làm ấm lòng con gái mình, và cũng làm người đọc đỡ mủi lòng. Đoạn kết nhà thơ triết lý như một sự nhân quả:
            “Tội người - người chất nặng đầu
            Ra đi sẽ rối, qua cầu sẽ rơi”
     Tình thương của người mẹ thật bao la như biển cả, câu kết cuối cùng bà viết như vẫn sợ con mình khổ đau bà không quên nhắc lại lời khuyên nhủ con mình như một điệp khúc vang ngân trong tâm trí cô con gái yêu đáng thương của mình, bà lại gọi tên con  Minh Hiền lần nữa:
            “Đừng buồn nữa nhé! Hiền ơi!
                   Cứ vô tư, cứ nghỉ ngơi, mặc người”
     Câu thơ bị đứt đoạn bởi dấu chấm than (!) như  tắc nghẹn trong cổ rồi mới bật ra gọi “Hiền ơi!” , và dấm chấm lửng (…) như tiếng nấc trong lòng. Bà biết con mình khổ lắm, đau lắm nhưng biết làm sao. Nếu là gánh nặng mẹ đã gánh đỡ con rồi. Lời thơ như tự trách khứa chính mình “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Nếu con vui thì mẹ cũng nhẹ lòng. Nhưng những nỗi đau đã hằn sâu vào máu thịt, như chích vào tim gan, như giằng như xé. Mẹ biết, mẹ hiểu lắm. Mẹ còn cảm thông như hai người đàn bà với nhau, con vô tư làm sao được, con an lòng làm sao được. Vết thương lòng trong con như đang còn rỉ máu. Câu thơ an ủi con mà như cào cấu tâm can mình, day dứt ân hận một điều gì. Nhưng lại là an ủi chính mình.
     Mười tám câu lục bát là một trang nhật ký của nhà thơ Hoàng Hiệp có một cấu tứ bố cục chặt chẽ. Giọng thơ ngọt ngào, mộc mạc, dung dị mà đằm thắm thiết tha, da diết. gợi cảm, gợi thương đến gai người. Hai câu đầu bà mở bài như pháo nổ, như tiếng lòng người mẹ khóc con, rất ăn nhập với hai câu kết như những nốt nhạc âm vang dội vào lòng người. Tác giả trải lòng mình cho con, cho cháu, cho những người thân, cho nhân loại, cho độc giả thấy tình cảm của một người mẹ đang đau đớn nhìn con mình gặp nạn.Và đây cũng là tình cảm của những người mẹ Việt Nam, những người phụ nữ, với những đứa con thân yêu dứt ruột của mình đang đắm chìm trong bể khổ. Bài thơ là nốt chấm son trong sự nghiệp thơ văn của bà. Xin chúc bà mạnh khỏe và nhiều cảm xúc mới để có những thi phẩm mới, cho độc giả cùng chia sẻ

                                           Hà Nội ngày 02 / 9 / 2014




TA CÙNG NÍU GIỮ CÁI
“HƯƠNG MUỘN CUỐI MÙA” CỦA HỒNG VÂN

                    HƯƠNG MUỘN CUỐI MÙA
         
           Đường trần lạc sao vẫn đứng bơ vơ?
           Tôi ngơ ngác giữ màn đêm rơi rụng
Nhạc âm vang người ơi! Sao lúng túng?
Ảo vọng vu vơ mải quên nốt nhạc chờ.

Em sinh ra đâu có biết làm thơ
Mình một lối đưa ta vào dòng chảy
Nét trời sinh phận số là như vậy
Giữ được hay chăng? Hương muộn cuối mùa.

Vương tóc thề, ngọt lịm chút hương đưa
Cố tìm lại con đường xưa vương kỷ niệm
Liễu buông rèm, cánh bằng lăng rắc tím
Giữa muôn trùng lặng lẽ ánh sao rơi.

                                                       Hồng Vân 

      Lời bình

          Cuộc đời của mỗi con người, ai mà không có lúc buồn vui thăng trầm. Thi phẩm “Hương muộn cuối mùa” với  12 câu thơ, được chia làm 3 khổ, viết theo thể tự do vần liền chuẩn mực. Hồng Vân chị đã gửi gắm tâm sự của mình để chia sẻ cùng độc giả. Đây là bài thơ mang hơi thở buồn buồn nhưng có sức vươn lên trong cuộc sống.
          Khổ đầu là tâm trạng hẫng hụt như đã mất đi cái gì đó lớn lao làm lòng người ngơ ngác, bâng khuâng, lạc lõng, trầm tư. Thiếu đi sự tập trung, nốt “nhạc chờ” vang lên của đầu dây bên kia cũng làm chị lúng túng , hay chỉ vì những “ảo vọng vu vơ” tâm tư như bị xáo trộn: 
“Đường trần lạc sao vẫn đứng bơ vơ?
                   Tôi ngơ ngác giữa màn đêm rơi rụng
Nhạc âm vang người ơi sao lúng túng?
Ảo vọng vu vơ mải quên nốt nhạc chờ”.
          “Đường trần lạc” hay cuộc đời lạc lõng đơn côi bơ vơ, hay cuộc đời phong trần làm chị lạc lối đi về, trước sự mất mát đau thương, bi ai khổ lụy. “Màn đêm rơi rụng” chính là cái con người ta không níu lại được, nó trôi đi như thời gian không bao giờ trở lại, như một sự hoang tàn đổ vỡ. Hình ảnh “màn đêm rơi rụng” cũng chính là bóng tối đã ập đến. Nếu không vững vàng con người ta có thể đi đến chỗ hoang tưởng rồi sụp đổ. Cuộc đời là vậy, cái gì đi cứ đi, cái gì đến cứ đến. Có ai biết trước được cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Cuộc đời đưa đẩy, đẩy đưa theo con tạo xoay vần. Cũng như Hồng Vân chị biết đâu mình lại trở thành một người thơ:
            “Em sinh ra đâu có biết làm thơ
  Mình một lối đưa ta vào dòng chảy”.
Thực tế đã có không ít người trở thành nhà thơ bởi trong tâm hồn họ chứa chất nhiều điều uẩn khúc, gai góc trái ngang. Họ âm thầm không nói ra được, tất cả đã gửi gắm vào những trang thơ. Nhất là trong thời kỳ thế kỷ XX và XXI, nền văn học Việt Nam lại bùng nổ về thơ. Các địa phương từ xã tới phường, từ nông thôn tới thành phố, từ miền xuôi đến miền ngược đều có những câu lạc bộ thơ ca. Đó chính là “dòng chảy”  đã cuốn cuộc đời Hồng Vân. Những sân chơi ấy đã biến chị trở thành người cầm bút. Đây cũng chính là “Hương muộn cuối mùa”, những tinh hoa của ngôn ngữ, những vốn sống  được chắt lọc từ vị đời trong cuộc đời chị, sau những gì mất mát tưởng như gục ngã, khi quỹ thời gian còn ít ỏi của tác giả. Đôi lúc chị hồi tưởng lại cái quá khứ đẹp đẽ của tuổi thanh xuân “Vương tóc thề, ngọt lịm chút hương đưa” và chị cố lục trong ngân hàng ký ức để “tìm lại con đường xưa vương kỷ niệm”. Cái gì đi đã đi, cái gì đến đã đến nhưng tác giả vẫn không quên:
            “Liễu buông rèm, cánh bằng lăng rắc tím
 Giữa muôn trùng lặng lẽ ánh sao rơi”.
          Hình ảnh “Liễu buông rèm” thật đẹp nó gợi tả một không gian thơ mộng, như cụ Nguyễn Du đã tả trong truyện Kiều:
            “Lơ thơ tơ liễu buông mành
  Con oanh học nói trên cành mỉa mai”
                                                     (Truyện Kiều)
      Hình ảnh đẹp làm cho câu thơ đẹp, những “cánh bằng lăng rắc tím” nói lên mối tình chung thủy khó phai mờ của tác giả Hồng Vân , và cũng không bao giờ quên được những đớn đau như  “ánh sao rơi” lặng lẽ giữa muôn trùng vũ trụ bao la.
          Bài thơ chị viết với giọng trầm buồn, có hậu, giàu hình ảnh gợi cảm, với thủ pháp nghệ thuật cao, ý tại ngôn ngoại, bắt người đọc phải suy ngẫm, đa chiều đa dạng, ngay đề tài bài thơ “Hương muộn cuối mùacũng đã rất ảo. “Hương muộn” cũng chính là cái thăng hoa của cuộc đời chị lúc tuổi đã xế chiều. Bài thơ viết theo thể tự sự mà không vướng phải lỗi kể lể. Cấu tứ chặt chẽ mà chưa chặt chẽ, nếu như khổ thứ 2 mà đưa xuống làm khổ kết (khổ 3) thì rất hay. Dù sao chăng nữa đay cũng là bước tiến vượt rào trong sự nghiệp thơ văn của chị.Chúc chị hạnh phúc. Chúng tôi đang đón đợi những thi phẩm hay hơn nữa

                                                                            Hà Nội ngày 08 - 9 - 2014
                                          



TA HÃY XEM NỖI LO LẮNG TRĂN TRỞ CỦA
NỮ SĨ MINH HIỀN QUA BÀI THƠ “LỆCH”

      LỆCH
         
      Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa
      Sợ mưa bong bóng cứ đùa
Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi
      Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng.

Lời bình

          Trong dân gian mọi người thường nói “Thế gian được vợ hỏng chồng / Mả táng hàm rồng mới được cả đôi” . Đó là sự triết lý của ông cha ta từ bao đời nay, tất cả mọi việc trên đời, ít có sự hoàn hảo, mà hoàn hảo đến tuyệt đối lại càng khó. Chỉ sáu câu lục bát  nhà thơ Minh Hiền đã khắc họa nên điều đó. Cũng giống như câu ca dao:“Bây giờ chồng thấp vợ cao / Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Đó chính là cái lệch nhau trong cuộc sống. cũng chính vì thế nên tác giả sợ nhiều điều:
                  “Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
            Sợ ngày bỏng rát, để duyên cạn mùa”
          Nhà thơ sợ “đêm vẫn khoác đen” hay sợ cái bóng tối cứ bao trùm mãi cuộc đời. Những đau thương, mất mát khổ đau, những dằn vặt, cô đơn... Cứ đeo đẳng theo suốt cuộc đời. Ở đây ta được thấy tác giả dùng phép tu từ thật độc đáo, từ “đêm” có nghĩa là tối, mà đã tối thì phải “đen”. Từ “đen” đồng nghĩa với tối, mà đã tối tức là “đêm”. Đọc câu thơ ta thấy cái thi vị của thơ , ta thấy giá trị của ngôn ngữ trong thơ, ta thấy yêu thơ hơn. Câu thơ nó hay ở chỗ “đêm vẫn khoác đen”. Đã đêm rồi, đã tối tăm rồi, đã đen rồi còn khoác thêm đen. Thử hỏi cuộc đời đen tối, khổ hạnh đến bao giờ mới nhìn ra ánh sáng. Từ “khoác” ở đây thật thú vị, “khoác” gần đồng nghĩa với trùm, cuộc đời đã tăm tối còn trùm thêm đen bạc thì khổ sở biết chừng nào. Đấy là Minh Hiền sợ cái bóng đêm dài dằng dặc. Còn ngày thì sao, ta hãy xem sự lo lắng của chị:“Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa”. Cái sợ “Ngày nắng rát” của chị cũng như Tố Hữu đã viết:
                  “Ngột làm sao, chết uất thôi
             Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
                                               (Khi con tu hú).
      Tiếng chim tu hú kêu hay tiếng than vãn của con người. Đêm thì sợ kéo dài lê thê, ngày thì sợ nắng chói trang bỏng rát như quất vào da thịt. Hoàn cảnh thật trớ trêu, nó ngột ngạt u uất,“để duyên cạn mùa”. Từ “duyên” đã lý giải cho câu thơ. Không phải cuộc sống éo le vất vả, mà là một cuộc tình trái ngang, chật chội. “Duyên cạn mùa” hay tình yêu đã dần dần héo hon thui chột. Bát nước đầy lỡ đổ vớt lại không? Chưa hết tác giả vẫn còn:
                  “ Sợ mưa bong bóng cứ đùa
             Sợ giông hờn gió cứ ùa vào tôi”.
      Nói đến hình ảnh “mưa bong bóng” người ta thường liên tưởng đến sự đổ vỡ chia ly, cách trở:
                  “Trời mưa bong bóng phập phồng
                      Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?”
                                                            (Ca dao).
      Tình yêu mong manh, mơ hồ như những quả bong bóng giữa trời mưa, phồng to lên rồi lại vỡ đi, cứ thế, cứ thế... Như giỡn đùa với số phận, nó cũng sẽ tan như bong bóng xà phòng, tan như bong bóng trời mưa. Và chẳng bao giờ phồng lên được, thế là hết. Điệp từ “sợ” được lập lại tới bốn lần, tác giả đã khái quát được nỗi lo lắng trăn trở trước cuộc đời. Lần cuối cùng tác giả “sợ giông hờn gió” . Sợ sự vùi dập, sợ sự tàn phá, sợ cái gì sắp đổ vỡ, hoang tàn, cô đơn, hiu hắt Bốn câu lục bát liên tục đối nhau: “Đêm” đối với “ngày”, “nắng” đối với “mưa”, “mưa” đối với “giông, gió” càng làm tăng sự lo lắng, dằn vặt, như những đợt sóng cứ nối tiếp nhau lớp lớp chồm lên nhấn chìm đi cái gọi là hạnh phúc. Đây cũng chính là thủ pháp độc đáo sử dụng cách tiểu đối trong thơ của Minh Hiền. những cái “sợ” của tác giả, đã mô phỏng, chính là từ những cái “lệch” trong cuộc sống:
                  “Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
            Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng”.
      Một sự so sánh thật thú vị mà lãng mạn, cái “lệch” của tình yêu đôi lứa lại ví như “lệch mùa trăng”. Ai cũng biết mùa trăng là mùa thu, trời trong xanh leo lẻo, nên ánh trăng lại càng sáng như cụ Nguyễn Khuyến đã vịnh:
            “ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
            Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
            Nước biếc trông như tầng khói phủ
            Song thưa để mặc bóng trăng vào”
                                                (Thu vịnh)
      Mùa trăng đẹp là vậy. Mùa trăng cũng là mùa cưới, mùa xây tổ ấm của những đôi uyên ương. “Hoa cúc vàng bắt đầu mùa cưới đó / Nắng hanh hanh cho má em ửng đỏ / Gió heo về mang hương vị tình yêu” (Chuyện chúng Mình của N.T), mà lệch mùa thì thật là buồn. nó tạo nên sự huyền ảo mơ hồ, nhạt nhẽo. cái “lệch mùa” ấy Hàn Mặc Tử cũng đã viết:
            “Ánh trăng mỏng quá không che nổi
            Những vẻ xanh xao của mặt hồ”
                                                               (Huyền ảo)
      Trăng trong thơ của Minh Hiền đã “lệch mùa”  lại bị sẻ làm đôi thì buồn quá. Có phải chăng đây là sự đổ vỡ của những cuộc tình ngang trái. Vậy nên chị sợ “ đêm vẫn khoác đen”  là đúng thôi . Khi đã lệch, ai cũng muốn kê cho bằng. Sự tha thứ, lòng vị tha, tính nhân văn trong mỗi con người lại là điều cần thiết. Nhưng tác giả lại gửi hồn mình vào thơ, chị chắp cánh cho thơ bay trong gió, chị “ thả thơ trôi cho bằng” . Tính hiện thực trong thơ của Minh Hiền đã được lý giải, bởi không ít trong thực tế đã minh chứng. Những sân chơi đã ít nhiều kéo lại sự thăng bằng trong cuộc sống.
      Với bốn mươi hai từ Minh Hiền ghép thành sáu câu lục bát, như đã giãi bày tình cảm, chia sẻ với độc giả bằng cách nén câu, nén chữ, ngắn gọn mà đầy đủ, súc tích. Giàu hình ảnh, trìu tượng mà cụ thể, ảo mà thật, dễ hiểu . Những thủ pháp tu từ, tiểu đối, so sánh, cách dùng điệp từ biểu cảm. Chị đã như dựng lại những tình cảm, của những cuộc tình có thật trong đời thường, như lời cảnh báo, răn đe. .Có thể nói rằng: Sáu câu lục bát của chị, là sáu câu thơ tài hoa. Bởi nếu ta chỉ đọc riêng từng câu, một mình nó cũng đã tỏa sáng, đủ nghĩa, và chuyển tải được đầy đủ nội dung của câu thơ, như những lời triết lý (bốn cái “sợ” hai cái “lệch”). Chúng tôi được biết gần đây Minh Hiền viết rất sung sức và chắc tay. Chúc chị khỏe mạnh, giàu cảm xúc để có những tác phẩm hay hơn.

                                                                             Hà Nội 16 - 10 – 2014
                                                        

\


TẤM LÒNG HIẾU THẢO CỦA MỘT NGƯỜI CON  qua bài thơ VIẾNG THĂM MỘ MẸ của nữ sĩ NGUYỄN HƯƠNG LIÊN

           VIẾNG THĂM MỘ MẸ

Chiều nay con về thăm mộ mẹ
Thắp nén hương thơm ngát không gian
Cỏ bao quanh khu mộ héo tàn
Đông buông rủ một mầu u ám.

Nỗi lòng con cũng buồn theo năm tháng
Con mất mẹ rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!
Khói hương thơm đã nói thay lời
Con nhớ mẹ muôn đời vẫn thế.

Con ước ao trong mơ gặp mẹ
Mẹ cười hiền âu yếm bên con
Chao ơi! Trong cõi linh thiêng
Ước gì có mẹ đến bên con ngồi.

Ngoài năm mươi tuổi đấy thôi
Vẫn còn thèm mẹ trên đời biết bao
Tình mẹ như những vì sao
Sáng trong trời đất soi vào tim con.

Mẹ nằm đây giữa quê hương
Nhưng hồn mẹ vẫn theo con dặm đường
Khói hương tỏa khoảng trời thiêng
Cúi đầu tạ mẹ lên đường con đi

                                    Nguyễn Hương Liên

   Lời bình

   Cầm trên tay tập thơ TÌNH THƯƠNG VÀ NỖI NHỚ khi đọc đến bài “Viếng thăm mộ mẹ” tôi thật sự bồi hồi xúc động trước tấm lòng hiếu thảo của nữ sĩ Nguyễn Hương Liên. Là người con, ai mà quên được công ơn sinh thành của cha mẹ, nhất là người mẹ đã chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, dứt ruột sinh ra mình. Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ, mẹ là người luôn dành những tình cảm yêu thương nhất cho con, chỗ ráo nhường con, chỗ ướt mẹ nằm. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể. Hạnh phúc lớn nhất của mỗi con người chưa chắc đã phải là địa vị, hay giàu sang phú quý, mà chính là có mẹ và còn mẹ. Bởi mẹ là quê hương, mẹ là đất nước. Những ai không còn mẹ, quả là thiệt thòi và là tổn thất lớn lao nhất. Nhà thơ Nguyễn Đình Vinh đã viết:
            “Một nén hương thơm nồng nàn lặng lẽ
                     Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
                     Dù bao năm dù có hóa vô thường
                     Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất”.
                                                      (Bông hồng vàng)
          Nhà thơ Nguyễn Hương Liên với tấm lòng hiếu thảo của mình trước lúc đi xa, cũng như khi trở về quê hương, không bao giờ quên đến trước phần mộ mẹ mình thắp những nén nhang thơm thảo kính dâng lên mẹ:
  Chiều nay con về thăm mộ mẹ
  Thắp nén hương thơm ngát không gian
  Cỏ bao quanh khu mộ héo tàn
  Đông buông rủ một mầu u ám.
          Nén nhang của chị vặn xoắn thơm ngát không gian, chị như cảm thấy linh hồn mẹ được mát mẻ, đang về che chở cho chị. Chị xót xa thấy cỏ quanh khu mộ héo tàn, hay chính lòng chị đang héo hon khi không còn mẹ. Câu thơ giản dị mà như cứa vào lòng người đọc. Chị viết cho chị hay chị viết chung cho những người đang chịu thiệt thòi như chị. Chị chia sẻ cùng mọi người, chị cảm thấy mùa đông buông rủ một mầu u ám. Khổ thơ đầu chị viết theo thể vần liền, nhạc điệu trầm buồn man mác, khiến độc giả cũng thấy buồn lây. Chỉ riêng câu kết của khổ đầu ta cũng đã thấy đầy màu sắc của nghĩa địa ảm đạm, u ám làm sao. Quả như Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nỗi buồn của chị dài theo năm tháng, trước phần mộ mẹ mình chị khóc, câu thơ như nấc lên, chị nghẹn lời đành nhờ khói nhang nói hộ:                                              
“Nỗi lòng con cũng buồn theo năm tháng
Con mất mẹ rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!
Khói hương thơm đã nói thay lời
Con nhớ mẹ muôn đời vẫn thế”.
Một đời người có bao nhiêu sự mất còn, ta đã mất gì, ta còn gì. Không nỗi đau nào bằng mất mẹ, mẹ ra đi là mẹ  mang đi cả lời ru ngọt ngào bên cánh võng, nhưng tình thương vẫn da diết bên con. Những vẫn thơ chân chất mộc mạc, không hoa mỹ, dễ hiểu mà như sói vào vào lòng độc giả, bởi ai sinh ra mà không có cha có mẹ. Lời thơ của chị như tiếng khóc nấc lên, “con mất mẹ thật rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!”. Các thi sĩ thường hay viết ảo (ý tại ngôn ngoại) đánh bóng ngôn từ để cho câu chữ của mình “thật thơ, rất thơ”, nhưng chắc gì đã hay hơn những ngôn ngữ đời thường mà gây được cảm súc cho người đọc. chính Nguyễn Hương Liên lại làm được điều này, chị khóc bằng thơ, những câu thơ giản dị làm người đọc cũng hoen mi. Nhà thơ Hoàng Cửu Long cũng đã khóc mẹ như thế:
            “Mẹ yêu ơi! Đã xa rồi trần thế
                    Cõi hồng trần lòng con lạnh tái tê
                    Trong cơn mê mẹ âu yếm vỗ về
                    Vẫn nụ cười sưởi lòng con ấm áp” 
                                           (Nhớ mẹ Lý mồ côi)    
          Tấm lòng hiếu thảo của tác giả thật đáng trân trọng và khâm phục. Mỗi khi đi xa về gần chị không quên tới viếng thăm mộ mẹ. Chị như muốn níu kéo một điều gì, dường như mẹ với chị là tất cả, mất mẹ là mất tất cả Qua thơ của chị ta mới thấy hết được tình cảm sâu nặng của chị:
            “Mẹ nằm đây giữa quê hương
  Nhưng hồn mẹ vẫn theo con dặm đường
  Khói hương tỏa khoảng trời thiêng
  Cúi đầu tạ mẹ lên đường con đi”.
          Nữ sĩ chào mẹ khi lên đường, nén nhang thơm cầu cho mẹ mồ yên mả đẹp, nhưng vẫn thầm mong linh hồn mẹ theo con trên mọi nẻo đường, chở che cho con, dẫn dắt con đi bằng những vần thơ lưu luyến đằm thám thiết tha
Ngoài năm mươi tuổi, đã là mẹ, đã bà mà tác giả vẫn thèm mẹ như đứa trẻ thơ:
  “Ngoài năm mươi tuổi đấy thôi
            Vẫn còn thèm mẹ trên đời biết bao
 Tình mẹ như những vì sao
 Sáng trong trời đất soi vào tim con”.
          Vẫn lối viết tự sự mà không rơi vào cái khuyết tật kể lể, tác giả chia sẻ nỗi lòng mình, như con trẻ chị vẫn thèm mẹ trên đời biết bao. Ở đây ta bắt gặp từ “thèm” mới thật thú vị, nó gợi lên cái tình cảm ngọt ngào ấm áp của tình mẫu tử, “Con yêu mẹ con xà vào lòng mẹ / Để suốt đời con được chở che” (Lê Nghiêm). Với mẹ bao giờ con cũng bé bỏng, cũng còn trẻ thơ. Mẹ là tất cả, như những vì sao / Sáng trong trời đất soi vào tim con.

          Bài thơ được tác giả cắt làm 5 khổ, Nguyễn Hương Liên viết theo chiều mặt phẳng, chị nghĩ gì viết lấy theo mạch cảm xúc của mình, mà vẫn gợi cảm. Đây là cách viết rất khó, bởi dễ viết nhưng rất khó hay, nhưng chị đã thổi hồn mình vào thơ, gây được cảm xúc cho người đọc, đây chính thành công của người cầm bút. Bài thơ bố cục chặt chẽ nhưng chưa được mạch lạc, nếu như khổ thứ 4 mà chị đẩy xuống làm khổ kết thì mới logic, và ăn nhập với chủ đề, vì đây là bài thơ tự sự kể lại tình cảm của mình từ lúc trẻ cho đến lúc đã ngoài năm mươi tuổi. Chúc chị thành đạt trong sự nghiệp văn chương.




“CHỢ LÀNG” -  NƠI MIỀN QUÊ YÊN Ả
CHỢ LÀNG

      Về thăm quê, ra chợ làng
Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?
      Dăm người bán, vài người mua
Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng
       Nhìn mớ rau bó vội vàng
 Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ quê
      Người bán hàng vội muốn về
Người mua cũng thế - bộn bề như nhau
      Không nói thách, chỉ một câu
Người mua người bán gặp nhau hài lòng
      Bán mua xong vội ra đồng
Chợ làng phơi cái long đong phận người …

                                        Ngày17/1/2015
                                          Đỗ Đức Năm
Lời bình của Nghiêm Thản

     Tôi không dám nói đến cả hành tinh này, mà chỉ nói đến đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta. Trải qua hàng vạn năm, với sự phát triển tiến hóa của loài người, con người đã tạo ra nơi trao đổi hàng hóa, đó chính là “chợ”. Chợ cũng chính là nơi phơi bày đầy đủ nền nếp văn hóa, kinh tế, chính trị của mỗi miền dân tộc. Chúng ta có chợ phiên, chợ quê, chợ sớm, chợ chiều… Và bây giờ hiện đại hơn ta có chợ siêu thị. Một sự tình cờ đọc trên Faecbook tôi bắt gặp bài thơ CHỢ LÀNG của tác giả Đỗ đức Năm, chỉ 12 hai câu lục bát ngọt ngào anh đã cho độc giả hiểu thêm về con người thuần Việt với tấm lòng thơm thảo, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương. Khi về nơi chôn nhau cắt rốn của mình anh đã thấy:
            “Về thăm quê, ra chợ làng
      Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?”
     Không phải anh ngỡ ngàng trước sự tần tảo sớm khuya của bà con lối xóm, chúng ta thừa hiểu rằng ông cha ta vẫn chịu thương chịu khó là vậy. Từ “Lạ chưa” một câu hỏi tu từ được đặt vào cuối câu 8, chúng ta đừng vội cho rằng tác gỉả là người quan liêu không hiểu gì về những miền quê, mà đây lại chính là cái đòn bẩy để ta hiểu thêm về con người quê vẫn chân chất là vậy. Ai chẳng biết rằng đời sống bây giờ trên mọi miền đã khá hơn nhiều, thế mà nơi chợ quê “tinh mơ đã thấy bán hàng”, không phải vì nghèo túng mà phải đến nỗi tần tảo thức khuya dạy sớm như xưa. Với nghệ thuật viết của Đỗ đức Năm, những câu 6 được cắt nhịp 3 – 3, câu 8 được cắt nhịp 4 – 4 đã cho ta thấy không khí chợ từ dăm ba người rồi đông dần, đông dần:
            “Dăm người bán, vài người mua
      Mớ rau món tép, chào thưa dịu dàng”.
     Người quê thân thương là vậy chỉ “mớ rau món tép” thôi, mà “chào thưa dịu dàng”. Thật trân trọng và đáng quý. Câu thơ anh viết nhẹ nhàng chân thật, giọng thơ chân chất quê mùa như người quê vậy, mà chuyển tải được một vùng quê thanh bình yên ả, con người quê tình cảm thật thà chất phác, khiến độc giả quên đi cái chật chội bon chen nơi đô thị, như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:
            “Người quê mưa nắng giãi giề
      Mớ tôm mớ tép đi về có nhau”.
     Còn Nguyễn Trọng Tạo, với góc nhìn của anh, thấy cả những sản vật ngoài đồng và những người làm ra nó:
            “Chợ quê gom cả hương đồng
      Chè xanh rượu bắp, khoai trồng đất pha
            Mớ rau nải chuối quả cà
      Con cua ngoài ruộng, bông hoa trong vườn”
     Từ con người quê đến sản vật quê đều mang cái sắc thái của người Việt. Qua cái nhìn của nhả thơ Hà Cừ ta thấy: “chợ quê con tép cũng gầy / Con cua, con cá dính đầy bùn tươi / Mớ rau muống, mớ mồng tơi / Quả bầu, quả bí nói lời gió sương”.Với lăng kính của Đỗ Đức Năm anh cũng cho độc giả thấy:
             “Nhìn mớ rau bó vội vàng
      Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ quê”
     Câu thơ dản dị như người nông dân, như những câu nói đời thường, mà lại rất thơ, bởi tự nó lung linh tỏa sáng, nó chuyển tải được cái lam lũ vất vả, giản dị của người quê, chỉ qua những cụm từ “vội vàng”, “ Không cần gọn đẹp” ta cũng đã nhận ra điều đó. Thơ của Đỗ Đức năm còn  nói nên được tính cách và phẩm chất của người quê:
               “Người bán hàng vội muốn về
      Người mua cũng thế - bộn bề như nhau
               Không nói thách, chỉ một câu
      Người mua người bán gặp nhau hài lòng
            Bán mua xong vội ra đồng”
 Người quê là vậy, công việc nhà nông là thế. Lúc nào họ cũng vội vội, vàng vàng, tranh thủ làm, tranh thủ ăn, mua mua, bán bán, con con, cháu cháu, rồi con lợn con gà… Tất bật, tất tưởi. Nhưng rất thật thà, không bon chen không đố kị, không hẹp hòi chật chội. Nhà thơ Nguyễn Siêu Phàm cũng đã cho ta thấy được cái đức tính tốt đẹp ấy: “Bán thì vội bán, mua thì vội mua / Thói quê tất tả bốn mùa / gánh rau bán đứng / Trái dưa bán ngồi” Người quê suốt ngày họ quanh quất với ruộng đồng, mớ rau bó cỏ, con gà con vịt… công việc lúc nào cũng bộn bề  bận rộn “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. chỉ một câu kết thôi Đỗ Đức Năm cũng đã nói hộ người nông dân được điều đó: “Chợ làng phơi cái long đong phận người …” Phận người quê là vậy . Ở đây ta bắt gặp từ “Phơi”, phơi có nghĩa là bầy ra, phô ra trình bày cho mọi người biết. Trớ trêu thay lại là phơi cái “long đong” của con người. Đọc lướt qua ta chỉ nghĩ tác giả diễn tả cái vất vả của người nông dân, bởi câu thơ rất gần gũi với mọi người. Nhưng đây lại là một câu triết lý, chúng ta đã từng đi đến mọi miền đất nước, đến một nơi nào đó nếu chỉ vô tình thôi không đi tới chợ, thì chúng ta sẽ bị mơ hồ về nơi đó. Chính chợ là nơi “phơi” bầy những gì địa phương ấy đang có từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến nếp sống, đạo đức con người. Vậy thì câu thơ của Đỗ Đức Năm ở đây lại rất thơ.
      Với 84 từ tác giả đã chắp ghép thành 12 câu lục bát ngọt ngào đằm thắm thiết tha, ngôn ngữ trong thơ không xa lạ, rất đời thường không hoa mỹ, rất gần gũi với mọi người, bài thơ không dài, bố cục chặt chẽ. Tôi nghĩ đây là cái khó của người cầm bút. Chúc anh viết được nhiều bài hay hơn nữa.                                                       
                  
                                                                         Nghiêm Thản    


                                                                                                                        
NỖI LÒNG NGƯỜI XA XỨ LÀ NHỮNG TÌNH CẢM SÂU ĐẬM CỦA KHÔNG VĂN ĐƯƠNG QUA THI PHẨM “NHỚ LÂM THAO”

NHỚ LÂM THAO

      Mình về có nhớ Lâm Thao
Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng
      Phù sa đỏ nước sông Hồng
Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ Tiên
      Ai lên đỉnh núi thì lên
Mải mê hoài niệm lại quên đường về
      Cỏ non xanh tít chân đê
Lững lờ mây tím đồng quê xanh rì
      Trời xanh in bóng Ba Vì
Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô
      Êm đềm nước biếc sông Lô
Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương
      Trập trùng rừng cọ đồi nương
Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng
      Nơi này chín nhớ mười mong
Mái trường ngói đỏ nhuộm hồng chân mây
      Bao năm nhớ bạn, nhớ thày
Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu
      Mơ mơ một dáng yêu kiều
Mang mang giọng nói một chiều sương giăng…
      “Chàng đi có nhớ em chăng”
“Miền quê em ngóng mảnh trăng cuối trời”
      Ôi sao lời vọng một đời
Dù đi ngàn dặm xa vời còn thương
      Tình người như sợi tơ vương
Trăm năm vẫn gắng tìm đường gửi trao…
      Mình đi có nhớ Lâm Thao
Ta đi ta nhớ cồn cào trong tim …

                                      Khổng Văn Đương


Lời bình của Nghiêm Thản

     Cái trân trong đáng quý của người Việt Nam chúng ta là dù đi đâu về đâu, dù quê mình nghèo đến mấy, cũng vẫn nhớ về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có mồ mả tổ tiên ông bà ông vải, nơi có lời ru của mẹ, có đòn roi của cha dạy dỗ mình nên người, nơi có tiếng sáo diều bay bổng tít tầng không, có ruộng đồng ấp iu ngô khoai bắp… Ăm ắp những kỷ niệm tuổi ấu thơ và những người thân yêu nhất. Với 28 câu lục bát nhà thơ Khổng Văn Đương đã giãi bày những tâm sự của mình, một người con xa xứ luôn da diết nhớ quê hương. Chỉ 2 câu đầu anh đã trải được lòng mình:
                “Mình về có nhớ Lâm Thao
          Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng”.
     Câu thơ đậm sắc màu ca dao, có lẽ cái tố chất ca dao, cái tình quê mặn mà đã ngấm vào máu thịt anh.  Cụm từ “mình” với “ta” đã chứng minh được điều này. Anh nhớ Lâm Thao quê anh đến “nôn nao trong lòng”. “Mình” với “ta” không hẳn là tình yêu đôi lứa mà còn là những người cùng cảnh ngộ khi phải bươn chải kiếm ăn nơi xứ người. Người Việt Nam chúng ta là vậy. Đọc đến đây ta lại nhớ đến câu ca dao: “Mình về có nhớ ta chăng?/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Vậy nên tất cả những địa danh thân thương đã ùa vào thơ anh:
                “Phù sa đỏ nước sông Hồng
          Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ Tiên”
                “Trời xanh in bóng Ba Vì
          Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô
                Êm đềm nước biếc sông Lô
          Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương”.
     Nhà thơ Giang Nam khi xa quê hương, ông  cũng đã không quên được những kỷ niệm nơi quê hương mình:
    “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường 
 Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: 
 "Ai bảo chăn trâu là khổ? " 
 Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao” 
                                                     (Quê hương  - Giang Nam)
     Những địa danh ấy, dấu chân anh đã in đậm thời ấu thơ, đã khắc ghi vào tâm trí anh, song hành cùng anh trên mọi nẻo đường Tổ Quốc:
               “Trập trùng rừng cọ đồi nương
          Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng
                Nơi này chín nhớ mười mong
          Mái trường ngói đỏ nhuộm hồng chân mây”.
     Ấn tượng sâu đậm nhất ta gặp là những dòng thơ mà Khổng Văn Đương viết về quê hương như mạch nguồn dân tộc. Dường như anh gửi vào đó cả một vốn kiến thức dân gian và khát khao cái khí quyển dân gian nghìn đời ấy.  Những khổ thơ trên tràn ngập một thế giới cổ tích ca dao. Thơ anh còn phảng phất màu sắc của Nguyễn Bính khi ta nhớ tới câu:
“Quê hương tôi có cây bầu cây nhị 
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang... 
Có cô Tấm náu mình trong quả thị 
Có người em may túi đúng ba gang”
                                      (Quê Hương - Nguyễn Bính)
      Hình như trong mỗi câu thơ đều chất chứa một thứ điển tích nào đó trên đất Lâm Thao quê anh để anh nhớ đến vậy. Cái tình người là vậy “Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng”. Đây là tâm trạng riêng anh, nhưng anh đã nói hộ nỗi lòng của những người xa quê. Anh đã biến cái “tôi” thành cái “ta” chung của mọi người. Câu thơ đã hay còn đẹp, bởi anh đã biết tận hưởng cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Anh vấn vương với những kỷ niệm vơi đầy, tình thày tình bạn:
                “Bao năm nhớ bạn, nhớ thày
          Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu
                Mơ mơ một dáng yêu kiều
         Mang mang giọng nói một chiều sương giăng”
     Tình thày tình bạn là vậy sao anh không khỏi vấn vương, mà còn vấn vương nhiều nữa chứ, bởi anh còn vương cả “tơ lòng” kia mà, anh “Mơ mơ một dáng yêu kiều” để rồi nghe “Mang mang giọng nói một chiều sương giăng” của tình yêu tuổi học trò. Cho nên :
                “Ôi sao lời vọng một đời
Dù đi ngàn dặm xa vời còn thương
      Tình người như sợi tơ vương
Trăm năm vẫn gắng tìm đường gửi trao…
      Mình đi có nhớ Lâm Thao
Ta đi ta nhớ cồn cào trong tim”.
      Những dòng thơ cuối của bài thơ lại mang màu sắc lãng mạn của tình yêu tuổi học trò đã đẩy tính trữ tình lên cao trào, đó cũng là nghệ thuật của người cầm bút. Với 28 câu lục bát mượt mà đằm thắm, thiết tha, bài thơ hơi dài nhưng vẫn cuốn hút được người đọc không gây nhàm chán đó là thành công của tác giả. Xin chúc Khổng Văn Đương dồi dào cảm xúc để có nhiều tác phẩm trữ tình hay hơn nữa

                                                                                                       Nghiêm Thản
    

TÂM TƯ CỦA MỘT NGHỆ SĨ
Qua thi phẩm gửi Gửi trời của Việt Hồng


GỬI TRỜI

      Bao năm gảy những tiếng đàn
Lặng im như chỉ trăng ngàn vờ nghe
      Người ơi! Khuất núi có về
Lắng nghe từng giọt, lời thề bấy nay
      Vuốt mòn sợi bạc trong tay
Ngọt bùi nào biết đắng cay hỡi người
      Cô đơn lại nở nụ cười
Giọt ta lẫn tiếng đàn rơi ướt mình
      Giờ đau thế thái nhân tình
Rầy sang em nỗi bất bình ngày xưa
      Anh ngồi hòa những buồn mơ
Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời.

                                                   Việt Hồng
Lời bình của Nghiêm Thản

     Cuộc đời của mỗi con người, ai cũng có lúc buồn lúc vui lẫn lộn, lúc thăng lúc trầm, lúc say lúc tỉnh…  Nếu là thi sĩ họ gửi cả vào thơ, là họa sĩ họ sẽ vẽ lên những bức tranh huyền diệu, là nghệ sĩ họ gửi cả tâm tư tình cảm của mình vào những phím đàn để sợi tơ đồng rung lên tiếng khoan tiếng nhặt. Thi phẩm “Gửi Trời” của Việt Hồng cũng vậy, qua ông kính của người thơ anh đã ghi lại những tình cảm của người nghệ sĩ họ rất yêu những niềm vui, cái đẹp quanh mình, nhưng họ vẫn có những nỗi buồn, những nỗi buồn ấy không muốn nói ra mà:
      “Bao năm gảy những tiếng đàn
Lặng im như chỉ trăng ngàn vờ nghe”.
     Chắc hẳn người nghệ sĩ buồn nhiều lắm, hay họ có cái gì uất ức chăng, họ lặng im, có lẽ chỉ trăng mới hiểu được tiếng tơ lòng của mình mà cũng lặng im, còn như“vờ nghe”, vậy thì biết chia sẻ cùng ai. Từ “vờ nghe” cho độc giả thấy được không gian thật tĩnh lặng, vậy ai hiểu được lòng mình đây, nghe thấy rồi mà như chưa biết. Câu thơ biểu cảm sự dằn vặt tâm can. Ở đây ta bắt gặp hình ảnh “trăng ngàn”, trăng ngàn là trăng cuối tuần hạ huyền khi sắp lặn, ánh sáng mờ mờ, huyền ảo buồn buồn, rất ăn nhập với ý thơ. Như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đây cũng là  cách dùng ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ để so sánh có sự lựa chọn vừa chính xác lại vừa làm đẹp câu thơ. Thế mới biết tình cảm của người nghệ sĩ sâu nặng biết nhường nào, cả khi người thân, và những thính giả từng nghe và hiểu tiếng đàn của mình đã khuất bóng. Người nghệ sĩ muốn gửi tâm tư tình cảm của mình qua tiếng đàn vút lên vũ trụ bao la, để thế giới bên kia nghe được, để cùng chia sẻ với lòng mình:
      “Người ơi! Khuất núi có về
Lắng nghe từng giọt, lời thề bấy nay”
     Lời thề ở đây không riêng gì như lời thề sắt son của tình đôi lứa mà nó còn chứa chất một sự hứa hẹn với nhau điều gì, dường như chưa thực hiện được, hay có cái gì đó thiếu tôn trọng nhau, coi thường nhau. Cho nên tiếng đàn mới khắc khoải “từng giọt” buồn, vẫn u uất trong lòng. Những người nghe và hiểu được tiếng đàn cùa người nghệ sĩ thì đã khuất, anh biết chia sẻ cùng ai, nhưng người nghệ sĩ vẫn chơi đàn anh chơi đến nỗi:
      “Vuốt mòn sợi bạc trong tay
Ngọt bùi nào biết đắng cay hỡi người”
     Nghe câu “vuốt mòn sợi bạc trong tay” Mới nghe ai cũng nghĩ người nghệ sĩ tuổi đã cao, anh vuốt những sợi tóc trên đầu mình mỗi khi buồn tủi, hoặc nghĩ đến nhân tình thế thái, Ở đây Việt Hồng anh đã miêu tả người nghệ sĩ chơi đàn như vuốt sợ tơ đồng đến mòn trong tay mình để chia sẻ buồn vui với mọi người. Đấy là chưa dám so sánh với nàng Kiều: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Ý thơ sâu sắc trìu tượng, đa chiều, đa dạng. Nếu ta chỉ dừng lại ý ban đầu vẫn không sai. Đó chính là nghệ thuật bút pháp của Việt Hồng. Ca dao thường nói: “ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay…”, Nhưng ở đây Việt Hồng lại viết: “ Ngọt bùi nào biết đắng cay” ý thơ ngược lại hoàn toàn. Có phải chăng trên đời này còn nhiều bất công, có những kẻ chỉ biết hưởng thụ, ăn quả mà chẳng nhớ người trồng cây, chẳng biết có bao người khổ sở gian nan, thậm chỉ phải gửi xương gửi thịt, phải hy sinh, đổ máu mới có được ngày hôm nay, họ chỉ biết nhận đâu biết cho ai cái gì. Câu thơ như chì, như nghiến. Như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:
         “Nghĩ cuộc đời nhận cho, cho nhận
          Mình đã nhận gì, những gì mình cho
          Cho và nhận có cái gì sòng phẳng
          Có kẻ nhận nhiều mà chẳng thấy cho”
     Việt Hồng anh biểu cảm những câu thơ tưởng như vô lý nhưng lại là có lý:
      “Cô đơn lại nở nụ cười
Giọt ta lẫn tiếng đàn rơi ướt mình”
     Khi con người ta đã cô đơn thì mấy ai nở được nụ cười, mà thường lặng im như những người trầm cảm. Nhưng ở đây Việt Hồng lại viết: “Cô đơn lại nở nụ cười”, phải chăng đây là tiếng cười chua chát trước thế thái nhân tình của cuộc đời, có cái gì đó thiếu sòng phẳng chăng. Sách cổ cũng có câu: “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật / Tiếu tựa thư sinh lạc đệ thi” (Khóc như thiếu nữ về nhà chồng / cười như thày khóa hỏng thi). Như Trần Tế Xương cũng đã cười:
      “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
 Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng”.
     Vậy thì câu thơ lại hoàn toàn có lý, để những giọt lệ buồn hòa lẫn vào “tiếng đàn rơi ướt mình”. Với ngòi bút của Việt Hồng người nghệ sĩ không những đã cất lên tiếng cười chua chát, còn khóc, anh khóc thầm qua những tiếng đàn, và thấy:
      “Giờ đau thế thái nhân tình
Rầy sang em nỗi bất bình ngày xưa”
     Chắc hẳn “nỗi đau thế thái nhân tình” này đau lắm, nó đau đến tận xương tận tủy, nó như  mũi dao chích vào con tim, hằn vào da thịt để muôn đời muôn kiếp không quên, làm cho tâm hồn u uất, biết kêu ai, vậy chỉ còn có cách kêu trời, giống như những người dân tộc vùng sơn cước gửi những nỗi bất bình của mình vào những cây lêu vẽ hình con chim ngày tết, để sang một năm mới may ra các đấng thần linh còn giải cứu cho sự công bằng. Việt Hồng anh đã khắc họa nỗi đau của một con người, một nghệ sĩ, có lẽ nỗi đau này còn rầy sang cả người thân yêu nhất của mình Vậy chỉ còn có cách gửi lên trời những tiếng đàn, là những thông điệp, nó chứa chất những tâm tư tình cảm của mình những nỗi buồn vui:
       “Anh ngồi hòa những buồn mơ
Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời”.
     Đâu phải riêng người Việt Nam hay người Á Đông, mà cả hành tinh này, mỗi khi con người ta có những điều không giải cứu được họ đều kêu Trời (Trời ơi! Có thấu cho chăng ? Hoặc lạy Chúa Trời, (Xin Chúa hãy ban phước lành và cứu rỗi cho con). Câu kết người nghệ sĩ cũng như nhiều người khác muốn “Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời” những thông điệp của mình tới tất cả mọi người
     Với 12 câu lục bát đôi chỗ còn phải dùng vần thông để giữ ý thơ, tự sự mà không kể nể. Nhưng vẫn giữ được giai điệu ngọt ngào da diết. Việt Hồng, anh đã cho ta thấy những nỗi đau của con người, như những thông điệp bất công của nhân tình thế thái, có những con người gần như bất lực tê liệt, chỉ biết ôm những u ất và lặng im xem con tạo xoay vần. 

                                                                                                  Nghiêm Thản                                                      



TA HÃY XEM NỮ SĨ MINH HIỀN NGHĨ GÌ VỀ NGƯỜI CON GÁI KHI ĐI LẤY CHỒNG QUA THI PHẨM “SANG NGANG”


SANG NGANG

      Thế là xấp ngửa sang ngang
Thế là lã chã mưa sang nhà người
      Cau non bổ bốn ra rồi
Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm.

      Đài trang chín nụ tầm xuân
Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao
      Lạnh không, phận liễu má đào
Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ.

      Trăm sông vẫn cứ đôi bờ
Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng khơi
      Vớt câu thơ bạc đem phơi
Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều.

                                             Minh Hiền


Lời Bình của Nghiêm Thản

     Là người con gái hầu như ai cũng phải đi lấy chồng, nhưng trớ trêu thay mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Có một điều ta thường gặp “khóc như thiếu nữ lúc vu quy”, đó chính là tình cảm của người phụ nữ Việt Nam. Trong tay tôi có tới 200 bài “Sang ngang”. Mở tập thơ “Bảy tia nắng chiều” của Minh Hiền được NXB Hội nhà văn ấn hành ngày 11 / 10 2016, chạm phải bài “Sang ngang” tôi giật mình, bởi đề tài này viết thật khó, cũng như những bài thơ viết về mẹ, nếu ta thu nhặt những bài thơ như thế này, ta thử đặt lên bàn cân có lẽ tới hàng yến hàng tạ, hàng tấn, nói quá một chút nếu xếp lên có thể đè chết người. Bài “Sang ngang” của Minh Hiền có một giọng rất riêng, nói đến nỗi đau của người “sang ngang”, người đi lấy chồng cũng rất riêng:
      “Thế là sấp ngửa sang ngang
Thế là lã chã mưa sang nhà người”.
     Số phận người con gái lênh đênh như con thuyền giữa dòng sông với 12 bến nước, biết bến nào đục bến nào trong. Chọn ư? Khó lắm! không được! Bởi số phận đã an bài:
                  “chuyến này chị bước sang ngang
             Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay”.
                       (Sang ngang - Nguyễn Bính)
     Người con gái khi “sang ngang” của Minh Hiền lại như một sự ép buộc, khổ sở không thuận lòng bởi làm sao mà phải “sấp ngửa sang ngang”, làm sao mà phải khóc đến“lã chã”. Nhưng cũng không hẳn là như vậy, còn nhiều lý do khác chưa lý giải được. Đây là câu thơ hay bắt người đọc phải dừng lại mà nghĩ ngẫm, như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:
                      “Em là con gái nhà lành 
                   Cha mẹ mất cả, cũng đành vậy thôi!”
      Đây lại là lý do cụ thể, nhưng với thơ Minh Hiền có sự cuốn hút như bắt độc giả phải bám vào câu thơ để lí giải được ý thơ, mặc dù người con gái khóc “lã chã” như “mưa sang nhà người”. Ở đây ta bắt gặp điệp từ  “thế là” chứng tỏ rằng chữ “đành” của người con gái lúc về nhà chồng, ta ngầm hiểu còn có bao nhiêu cái “đành” nữa, mà người con gái phải gánh chịu. Câu thơ mang đầy tính nhân văn, Minh Hiền xót xa và thông cảm cho những số phận người con gái phải lấy người không yêu là vậy. Đọc đến hai câu tiếp theo:
      “Cau non bổ bốn ra rồi
Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm”.
      Bây giờ ta mới vỡ ra rằng người con gái khi đi lấy chồng trong thơ Minh Hiền cũng rất có giá đấy chứ, đâu phải có những người chỉ vài chai rượu nút lá chuối là xong, đâu phải như mớ rau mớ cỏ, cũng “cau non bổ bốn ra rồi” cũng “Trầu xanh vôi trắng” cũng có lời thưa gửi trịnh trọng và “gói lời lên mâm” đàng hoàng lắm chứ. Chứng tỏ “Tay bâng trầu đầu đội lễ” hẳn hoi có kém ai đâu. Chỉ hai câu thơ ta thấy được người con gái “sang ngang” của tác giả có ăn, có hỏi đàng hoàng, câu thơ đã lý giải cho từ “sấp ngửa” không phải là vội vàng mà là sự đau khổ. Đau khổ đến tột cùng thôi đành phó thác cuộc đời cho số phận. Vậy nên ta càng thấy cái hay của điệp từ “thế là”. Trong ca dao chúng ta thấy“yêu nhau cau bốn bổ ba / ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Đấy là nói đến tình cảm đôi lứa. nhưng trong thực tế cau to cau nhỏ, các cụ ta thường bổ “bốn” để mang ý nghĩa 4 họ đã chứng kiến đôi uyên ương đã nên vợ nên chồng. Nhưng từ “vôi trắng”“gói lời” thì rất hay. Đã đành vôi thì phải trắng, nhưng từ “vôi trắng” ở đây ta cảm thấy cuộc tình này có cái gì bạc bẽo. người ta vẫn nói:  “Bạc trắng như vôi trát tường”. Ngạn ngữ có câu:“Học ăn, học nói, học gói, học mở” thế thì câu “gói lời lên mâm” lại trở lên tuyệt vời đến long lanh của câu chữ, nó nêu lên được sự giao tiếp rất lịch sự và trịnh trọng, gia giáo lễ phép, đúng thuần phong , mỹ tục của người Việt. Vậy thì từ “gói lời” rất thơ, câu thơ ảo mà dễ hiểu.
     Người ta chưa nhìn thấy bóng vía hiện hữu nhưng ai cũng có thể cảm nhận được sự có mặt của nó bằng trực giác. Theo các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, bóng vía là một khái niệm trong dân gian, vẫn hiện hữu trong đời sống hằng ngày. Người đời vẫn quan niệm đàn ông có 7 vía đàn bà có 9 vía. Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền muốn giới thiệu cho độc giả về nhân vật là người con gái một cách rất khéo trong thơ của mình rất đài trang khuê các:
      “Đài trang chín nụ tầm xuân
Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao”
     Minh Hiền có lối viết khác người không “đánh bóng mạ kền” câu chữ, mà ngôn từ vẫn lung linh tỏa sáng. Chỉ cần mượn hình ảnh “chín nụ tầm xuân” độc giả cũng biết ngay đây là người con gái rất tươi trẻ, “chín nụ tầm xuân” cũng như 9 vía của người con gái, “ Cụm từ “nụ tầm xuân” ta hiểu ngay đó là một thiếu nữ, còn làm cho câu thơ lấp lánh đẹp lên. Ca dao cũng đã ca ngợi người con gái đẹp như “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” lại còn đứng sau từ “đài trang” thì chứng tỏ đây là một thiếu nữ hào hoa phong nhã, trong trắng trinh nguyên, đáng giá “nghìn vàng” được “gìn giữ” đến “trong ngần”, được nuôi dạy trong một gia đình gia giáo nề nếp, và bây giờ đã đến lúc trao thân gửi phận, rẽ sang một cuộc sống mới hoàn toàn khác lạ. Đọc đến đây tôi thầm nghĩ rằng: “Em như cây bấng lên khỏi đất / sẽ quen dần đất lạ quê anh”, và hy vọng rằng: “Vợ tôi cũng giống như tôi / lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu” (Vợ tôi – Lê Nghiêm). Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền viết đã hay còn đẹp đến long lanh của ngôn từ, mang đầy màu sắc dáng dấp của Truyện Kiều, phải chăng Minh Hiền đã chắt lọc được tinh hoa của Nguyễn Du, để cái chất lục bát sáng giá hơn:“Quá thương chút nghĩa đèo bòng / Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?”. (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Tôi dám nói rằng đây là một trong những câu thơ đạt đến mức tài hoa. Thơ của Minh Hiền là vậy, chị còn dùng cách đòn bẩy như một sự kích hoạt của câu chữ, đưa người thiếu nữ lên mức đài trang khuê các để rồi độc giả phải ngậm ngùi cho câu sau:
      “Lạnh không, phận liễu má đào
Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ”.
                 Rõ ràng người thiếu nữ kia đã đành phải chấp nhận cái “Lạnh không, phận liễu má đào” của mình mà còn lo lắng cho số phận của mình “thế là” lại tiếp những “thế là”… Không biết những chuyện gì sẽ sảy ra. Về nhà chồng mà như “vào hang nhện”, lại còn bao nhiêu lo lắng. đi lấy chồng mà như bị xa lưới “biết thế nào lưới tơ” Ở đây tính tư tưởng giáo dục rất rõ nét. Khoan hãy nói đến từ “bình đẳng”. Nếu là giới mày râu đọc câu thơ này phải biết thương phụ nữ nhiều hơn, yêu thương vợ mình hơn, biết ơn phụ nữ nhiều hơn… Bởi chính chị em đã mang lại hạnh phúc cho gia đình cho toàn nhân loại.
                 Bốn câu kết rất logic với bài thơ từ câu đầu “Thế là sấp ngửa sang ngang” cho đến câu: “Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng khơi” “Vớt câu thơ bạc đem phơi / Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều” Rất ăn nhập với nhau. Minh Hiền đã cho ta thấy một bi kịch của một người con gái đã đến tuổi xế chiều rồi mà vẫn khao khát một cuộc sống tươi đẹp, đầm ấm yêu thương, mặn mà, vẫn nuối tiếc cuộc đời. Nhưng cái đẹp đó như những câu “thơ” đẹp đấy nhưng rất “bạc” rất phũ phàng. Từ “bạc” ở đây lại rất khớp với từ “vôi trắng” ở trên, dù có níu lại “vớt” lên đem “phơi”cũng chỉ như ngọn gió “cong” “vênh”. Minh Hiền có cách viết rất ảo, rất trìu tượng nhưng dễ hiểu, láy lại ý mà không lập lại câu chữ. Xét về nghẹ thuật, thơ thì ai vớt được, nhưng lại vớt được, nhặt được, gió thì nhìn làm sao được mà bảo rằng gió cong vênh. Nhưng ta lại thấy cuộc đời nhiều lúc cong vênh, và khúc khỷu gập ghềnh, gai góc như cuộc đời nàng Kiều vậy. Ở đây tôi muốn nói những chiều thơ dễ hiểu không cần phải ý tại ngôn ngoại, mà lắng đọng, gây cảm xúc, đụng chạm đến tình cảm riêng tư của người đọc mới là bậc nhất của thơ. Còn viết một cái hiều cái khác vẫn chỉ là hay bậc thứ hai của thơ.
     Chỉ ngắn gọn trong 12 câu lục bát đằm thắm mượt mà, tài hoa Minh Hiền đã tái hiện lại một bi kịch của một số phận người con gái như hạt mưa sa. Cũng là đề tài “Sang ngang” nhưng lại rất riêng. Bố cục chặt chẽ, bốn câu đầu giới thiệu một cô gái khi đi lấy chồng, bốn câu tiếp theo nói về thân thế, thân phận người con gái ấy, và cuộc sống mới của mình khi rẽ “sang ngang”, bốn câu kết cho ta thấy đây là một bi kịch, và sự khát khao của người con gái đòi được yêu. Thơ Minh Hiền giầu hình ảnh, ngắn gọn, xúc tích, không dàn trải, đầy tính nhân văn, đã hay còn đẹp, từng câu chữ lắng đọng trong người đọc, như muốn thuộc lòng để rồi chiêm nghiêm, suy ngẫm đến mình, đến người, đến nhân tình thế thái. Đó là cách nhìn rất riêng của Minh Hiền.

                                                                                            Nghiêm Thản



MỘT MẪU NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
QUA BÀI THƠ “MỘT MÌNH ANH”
CỦA MINH HIỀN


MỘT MÌNH ANH

Em nằm viện
Anh ở nhà một mình thật khó
Chắc chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ
Và tiếng mọt giường kèn kẹt cầm canh.

Anh có nghe tiếng em thở rất nhanh.
Một mình em đối diện đen trong tối
Bước chân ai như bác sĩ rất vội
Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê.

Từng giọt truyền nhảy múa trong mê
Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt
Tỉnh ra mới thấy quanh mình đông chặt
Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây.
                                                                         
Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây
Em không tin bệnh tình đến vậy
Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy
Và anh sẽ thiệt thời khi em nằm viện lâu.

Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu
Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt
Tự nhắc mình hãy rộng lòng, đừng khe khắt
Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.

                                            Minh Hiền


Lời bình của Nghiêm Thản 

     Trong cuộc sống của mỗi gia đình, “mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”. Với ống kính của Minh Hiền chị đã tái hiện lại văn cảnh của một gia đình không nấy gì hạnh phúc lắm, bằng những vần thơ buồn man mác. Nhưng chị lại cho độc giả thấy một mẫu người Việt sẵn có từ xa xưa, đó là “ Công dung ngôn hạnh”. Một người phụ nữ, một người vợ, luôn nhận lấy phần thiệt về mình, mà vẫn lo lắng cho chồng con đầy đủ:
            “Em nằm viện
            Anh ở nhà thật khó”
     Câu thơ giản dị như câu nói cửa miệng mà khiến độc giả phải dừng lại suy ngẫm và nẩy tính tò mò. Bởi có người phụ nữ nào đáng thương và đáng trân trọng như thế không? Đã ốm đã đau chưa biết bệnh tình ra sao, nhưng cái lo đầu tiên khi nằm viện vẫn là cho chồng, ai là người cơm nước giặt giũ cho chồng đây. Chỉ hai câu mở đầu Minh Hiền cũng đã cho ta thấy một người phụ nữ rất mực đảm đang, tần tảo vì chồng vì con, gánh vác tất cả công việc nội trợ trong gia đình… Một người phụ nữ rất Việt Nam, như câu ca dao đã đi vào lòng người:
                  “Chồng em, em quí em thương
            Chồng người áo gấm xông hương, mặc người”.
     Cho dù người chồng ở bất cứ cương vị nào, hoặc là quan chức, hoặc là những kẻ ăn không ngồi dồi, sống lối sống gia trưởng, khinh rẻ vợ con, coi vợ chỉ là vợ, thậm chí vợ chỉ là nợ… Sống vô tâm, vô cảm. Kể cả những khi vượt cạn, cho đến lúc ốm đau phải nằm viện không ai chăm sóc:
            “Chắc chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ
            Và tiếng mọt giường kèn kẹt cầm canh”.
     Để bảo vệ hạnh phúc của gia đình, người phụ nữ trong thơ Minh Hiền đâu có dám đòi hỏi sự bình đẳng, mặc dù họ biết chắc rằng người chồng vô tâm bạc bẽo kia vẫn ăn no ngủ kĩ có biết đâu người vợ của mình với sức khỏe tàn tệ, “giẹo giọ” đang chống đỡ với bệnh tật. Ở đây ta bắt gặp cụm từ “Đêm thu giẹo giọ”, nghe lạnh lẽo quá, mà tại sao Minh Hiền không dùng “đêm đông” cho thêm phần giá lạnh. Các thi sĩ thường hay dùng các mùa để nói đến tuổi tác con người. Nói mùa xuân là nói đến sức sống căng tràn của tuổi trẻ, “tuổi xuân ta đi lên phơi phới”… Vậy thì từ “đêm thu” chứng tỏ tác giả đang muốn nói đến tuổi của người vợ kia đã xế chiều, mà lại “giẹo giọ” nữa thì thật quá tồi tệ, liệu có chống đỡ được bệnh tật hay chăng. Trong cái giấc ngủ ngon lành kia, người chồng vô tâm ấy liệu có nghe thấy tiếng rên đau đớn của người vợ hay không, có biết huyết mạch đang tăng dần đến mức nguy kịch hay không, hay chỉ nghe thấy tiếng mọt giường kêu “kèn kẹt” như nghiến vào từng thớ thịt người bệnh. Ngôn ngữ trong thơ Minh Hiền như cởi gan cởi ruột, ta nghe những tiếng côn trùng trong đêm đã thấy não ruột não gan rồi, mà ở đây lại là tiếng mọt kêu “kèn kẹt”, giống tiếng dao cạo tinh tre tinh nứa , nghe đến kển hết cả da thịt. Giọng thơ của chị buồn buồn mà như đay như nghiến, như trì như trích. Chỉ 2 câu thơ cuối trong khổ đầu cũng đã cho độc giả thấy nhân cách của một mẫu người chồng khó chấp nhận. Để đẩy tính kịch lên đến cao trào, Mình Hiền cho ta thấy cụ thể hơn:
 “Anh có nghe tiếng em thở rất nhanh.
Một mình em đối diện đen trong tối
Bước chân ai như bác sĩ rất vội
Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê”.
     Đến đây mạch thơ của chị lại chuyển sang lối viết tự sự, không kể lể mà ta vẫn thấy được tâm trạng của người phụ nữ, người vợ đang hoang mang, lo lắng, thất vọng, tưởng mạch máu của mình “sẽ rạn vỡ”.Chỉ một câu trong khổ thơ thứ 2 “Một mình em đối diện đen trong tối” độc giả cũng đã thấy được điều đó. Minh Hiền có lối viết láy ý chứ không láy từ: “đối diện đen trong tối” để đẩy nội dung lên đến cao trào hơn. Ta vẫn thừa biết đen đồng nghĩa với tối. Nhưng ở đây Minh Hiền lại đưa vấn đề “đối diện đen”, đối diện với cái chết cận kề, mà lại ở “trong tối”, có sáng sủa gì đâu, gần như không lối thoát. Thế mới là hay. Cách đặt vấn đề thật tuyệt vời. Bởi trong hoàn cảnh trớ trêu, một thân một mình, “đơn phương, độc mã” ốm đau không người chăm sóc an ủi, lại phải đối diện với con bệnh hiểm nghèo thì niềm hy vọng rất mong manh:
      “Từng giọt truyền nhảy múa trong mê
      Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt
      Tỉnh ra mới thấy quanh mình đông chặt
      Thoát hiểm rồi, em vẫn còn đây.”
     Có lẽ nữ sĩ Minh Hiền cũng là phụ nữ nên chị dễ thông cảm, và đồng cảm với chị em hơn. Trong cơn mê sảng “từng giọt truyền nhảy múa” như ma trêu quỷ hờn, người phụ nữ vẫn muốn sống, vẫn “Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt” để tìm sự sống chăng, nhưng chỉ là thứ ánh sáng lờ mờ “đầy mắt” có nhìn thấy ai đâu. Thơ của chị đầy tính giáo dục, và có hậu. Người ta thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Kể cả lúc khó vẫn đáng sống hơn, “Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây”. Em vẫn còn sống để anh (chồng) đỡ vất vả hơn. Câu thơ đầy tự tin và lạc quan, đậm tính nhân hậu. Cũng như người Phụ nữ Việt Nam là vậy, qua cơn hiểm nghèo lại nghĩ đến chồng con, lại nghĩ đến trách nhiệm, bổn phận của mình là làm vợ và làm mẹ:
             “Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây
              Em không in bệnh mình đến như vậy
 Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy
 Và anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu.”
     Đúng là “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” huống chi là tình cảm vợ chồng. “Giận thì giận, mà thương thì vẫn cứ thương”. Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu / Thương nhau đến lúc bạc đầu còn thương”. Thơ của Minh Hiền đầy tính nhân văn, cái thiệt thòi của người phụ nữ trong thơ Minh Hiền là không có từ “thương nhau”, mà chỉ một mình lo cho bệnh tật mình, lại càng lo cho chồng, chỉ “Một Mình anh” ai là người chăm sóc, ai là người “nâng khăn sửa túi” cho chồng, thiếu bàn tay phụ nữ rồi sẽ ra sao “Và anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu”. Vẫn mong có chồng bên cạnh, cho dù người chồng ấy là gì đi chăng nữa:
“Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu
Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt
Tự nhắc mình, rộng lòng, đừng khe khắt
Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.”
      Đọc thơ Minh Hiền mà thấy chua xót ngậm ngùi. Tâm lý người bệnh khi nằm viện, ai mà không mong muốn có người thăm hỏi, bạn bè ư? Đoàn thể ư? Tất cả đều chỉ thoáng qua! Còn người thân nhất là chồng, đầu gối má kề thế mà “Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu”, rồi lại tự mình an ủi, chấp nhận cam chịu với số phận. Minh Hiền tái dựng lại mẫu người Việt Nam là vậy, “đã bước chân về nhà chồng thì sống là người nhà chồng, chết là ma nhà chồng”. đây ta thấy cách bố cục của Minh Hiền rất logic và chặt chẽ, khổ kết chị dùng phương pháp đòn bẩy, câu đầu khổ chị đưa vấn đề cần chồng ra như một điểm tựa, rồi đẩy vấn đề cốt lõi của tứ thơ lên cao là chấp nhận số phận yếu mềm của mình “Sống được là may”. Tư tưởng trong thơ Minh Hiền luôn hướng thiện, không vị kỉ, đầy lòng vị tha. Đó chính là phẩm chất cao đẹp đáng trân trọng, nhưng cũng đáng thương, cũng chính là phẩm chất của những người vợ, người phụ nữ gốc Việt.
     Với 5 khổ thơ Minh Hiền đã tạo dựng nên một màn bi kịch nhưng lại có hậu. Chị viết thơ mà như viết truyện, có lẽ Minh Hiền là nhà văn thì đã cho độc giả thưởng thức một chuyện ngắn khá thú vị với những cá tính của hai nhân vật chính là người vợ trung hậu đảm đang rất mực yêu chồng, và người chồng lãnh đạm, vô tâm coi thường vợ. Qua thơ của chị, phái mày râu mới thấy rằng rất cần và biết ơn chị em phụ nữ nhiều hơn.

                                                                                                  Nghiêm Thản


 TIẾNG MƯA HAY TIẾNG LÒNG
Qua thi phẩm “Mưa đêm nhớ anh” của
Nguyễn Thị Lộc

ĐÊM MƯA NHỚ ANH

       Đêm mưa từng giọt rơi rơi
Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này
      Căn phòng lạnh lẽo bấy nay
Xót thương người ở chân mây cuối trời.
      Nỗi niềm năm tháng đầy vơi
Mong sao lo được cuộc đời ấm no
      Mình em gắng sức chăm lo
Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.
      Các con khôn lớn mỗi ngày
Học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm
      Việc nhà việc nước vẹn toàn
Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.
      Nhớ bao ký ức trong mơ
Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
      Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh, canh thâu nhớ người!

                                                   Nguyễn Thị Lộc


Lời bình của Nghiêm Thản


     Mỗi hạt mưa rơi rơi nỗi buồn lại như thấm vào tim, nhìn mưa lúc nào cũng có những nỗi buồn man mác không tên, những cơn đau đáu trong nguời, những muộn phiền… Nhưng nỗi buồn không tên lại đẹp một cách lạ kỳ chỉ có những người trải lòng cùng mưa mới hiểu, buồn nhưng không rơi nước mắt, chắc có lẽ trời đã khóc thương dùm. Mưa luôn mang đến cho con người ta nhiều những cảm xúc, đặc biệt là khi con người ta yêu, và mỗi người là một cảm xúc khác nhau trong tình yêu. Những hạt mưa hình như cũng đã đánh thức những ký ức những kỷ niệm rất xa xăm với tuổi 82 của tác giả Nguyễn Thị Lộc, da diết nhớ đến người chồng đã quá cố. Đây cũng chính là tình cảm và phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam:

.      “Đêm mưa từng giọt rơi rơi
Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này
      Căn phòng lạnh lẽo bấy nay
Xót thương người ở chân mây cuối trời.”
     Câu thơ day dứt xót xa, những giọt mưa như cứa vào lòng. Tình cảm, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam là vậy, họ luôn nhớ câu: “Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con, họ biết hy sinh tất cả, cam chịu cảnh cô đơn gối chiếc, một lòng thờ chồng nuôi con. Câu thơ giản dị đã nói được cái riêng của lòng mình và cũng là cái chung của mọi người, tác giả đã biến cái tôi thành cái ta. Không riêng gì tác giả mà nhà thơ Lê Hoàng cũng đã viết:
        “Đêm nằm nghe tiếng mưa rơi
        Xốn xang nỗi nhớ một người xa xăm
                         Gió luồn cơn rét lạnh căm
                   Tái tê cõi dạ như dằm trong tim”
                                    Tâm sự với em – Lê Hoàng
     Có lẽ cái xót xa, nỗi đau ấy người trong cuộc mới hiểu hết được nỗi lòng tác giả, họ đã hy sinh tình cảm riêng tư của mình để nuôi dạy con khôn lớn thành người. Chứng tỏ rằng những người phụ nữ như thế họ rất yêu chồng, thương con. “Chồng em áo rách em thương” Đó cũng là cái đức của người vợ, người mẹ Việt Nam, dù khó khăn đến mấy khi thiếu một bờ vai làm chỗ dựa, nhưng họ vẫn tần tảo sớm hôm mong sao có được cuộc đời ấm no:
      “Nỗi niềm năm tháng đầy vơi
Mong sao lo được cuộc đời ấm no
      Mình em gắng sức chăm lo
Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.”
    Với mạch thơ đầm ấm thiết tha da diết cứ chảy đều đều ngôn từ không hoa mỹ giọng thơ tự sự, ta càng thấy cái “nỗi niềm năm tháng đầy vơi ” của tác giả, mong sao con cái mình vẫn giữ được cái nề nếp gia giáo của gia đình.
      Viết về mẹ là vậy, người mẹ luôn là bóng mát che chở cho đàn con, “chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo nhường con”. Nhà thơ Lộc Tịnh viết về mẹ cũng không kém phần cảm động:
      Lau nước mắt vì con lam lũ,
Thấm mồ hôi bởi số nhọc nhằn.
      Hàng nghìn, hàng vạn gian truân
Quê nghèo vất vả, phong trần gió sương.”
                                      (Mẹ tôi – Lộc Tịnh)
      Tác giả Nguễn Thị Lộc vẫn mong như bao bà mẹ khác mong, đó là tấm lòng của người mẹ:
        “Các con khôn lớn mỗi ngày
 Học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm
       Việc nhà việc nước vẹn toàn
Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.”
     “Các con khôn lớn mỗi ngày, học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm”, đó chính là công lao của người mẹ. Người mẹ như một cô giáo trong nhà có đủ tứ đức “công, dung, ngôn hạnh” thay chồng nuôi con, làm mát lòng chồng nơi chín suối. Cụm từ “gương anh sáng ngời” tác giả đã cho ta thấy rõ ràng đây là một gia đình gia phong nề nếp. Các con càng khôn lớn thành đạt người vợ lại càng nhớ tới người chồng thân yêu của mình, bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức lại ùa về:
      “Nhớ bao ký ức trong mơ
Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
      Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh... canh thâu nhớ người!”
      Bên bàn thờ chồng, bên di ảnh chồng chắc người vợ thầm nghĩ anh hãy về chia vui cùng vợ và các con. Khổ kết câu thơ lại càng da diết yêu thương, chứng tỏ rằng ở tuổi 82 mà tâm hồn của tác giả còn rất trẻ, đầy sức sống, bởi giọng thơ rất trẻ.
     Với 16 câu lục bát mượt mà đầy chất trữ tình, tác giả chia làm 4 khổ, bố cục chặt chẽ mạch lạc, như một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, khổ đầu là mở, khổ 2 là thực, khổ 3 là luận và khổ cuối là kết. Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc thấy một mẫu người phụ nữ Việt Nam có đẩy đủ phẩm hạnh. Bài thơ thể lục bát rất chuẩn ngọt ngào hiệp vần tăm tắp, khiến người đọc không nhàm chán. Bài thơ viết theo chiều mặt phẳng ngôn từ giản dị không hoa mỹ trìu tượng, dễ hiểu, tác giả trải lòng mình, nhưng lại như dựng lên một tấm gương để con cháu và người đời noi theo. Đây là một thành công của người cầm bút ở tuổi 82. Sức viết đầy triển vọng, rất tiếc tác giả lại vào tuổi Hạc tuổi Tiên. Chúc cụ bách niên giai lão vui vẻ cùng con cháu.



NHỮNG CẢM XÚC VƠI ĐẦY 
TRONG TẬP THƠ ĐẦU TAY “THÁNG BA” 
CỦA MINH HIỀN

Tham luận

Tôi rất may mắn được Minh Hiền gửi tặng bản thảo tập thơ mà chị chưa đặt tên. Chị tâm sự : Em sẽ đặt tên cho tác phẩm đầu tay này là “Tháng ba”. Bởi tháng ba với em rất nhiều kỉ niệm. Sau khi đọc hết, tôi cũng rất tâm đắc với sự suy nghĩ của chị. Quả thật trong tập thơ chị viết rất nhiều về tháng ba, những hình ảnh tháng ba như gợi nhớ gợi thương, tháng ba như khắc sâu vào tâm trí chị.
    Trong tập “Tháng ba” Minh Hiền đã chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, lúc ngọt lúc bùi, lúc vui buồn, lúc thăng lúc trầm. Chị ca ngợi quê hương, non sông đất nước, bạn bè. Về biển đảo, tình yêu đôi lứa chị viết :
         “Bờ cát dài xa xa mãi khoảng không
         Con dã tràng vê nỗi buồn vào cát
         Hạt từng hạt, lăn tròn man mác
         Khoảng lặng xa  mờ, em và biển nhớ mong”.
                                                       (Đêm trên biển)
     Để giữ gìn biên cương, các bạn trai đã tạm xa người yêu, đến nơi đảo chìm đảo nổi, thì tránh sao được những nỗi buồn man mác. “Em và biển nhớ
mong" đó là hình tượng sự hy sinh cao đẹp của tình yêu nam nữ. Minh Hiền, chị còn vẽ nên bức tranh
biển đảo thật đẹp, và khẳng định chủ quyền của mình :
         “Biển đảo ngày đêm mênh mang lộng gió
           Sóng xô bờ dào dạt bản tình ca
           Nắng vẫn chan hòa, nắng thừa trên đá
           Biển hiên ngang, biển đảo của ông cha”.
                                                            (Biển đảo)
     Tổ Quốc ta thật đẹp, nhìn trên bản đồ hình chữ S, biển đảo như nắm gạo vãi ra, ông cha ta đã giữ gìn từng tấc đất để “biển vẫn hiên ngang”.Từ nơi biển đảo Minh Hiền lại ngược lên miền sơn cước để đến với Khau Vai chợ tình:
                     “Chợ tình đã tới tràn đêm
               Khau Vai ai đến mang duyên đi tìm
                      Phận em bẩy nổi ba chìm
               Đò vơi sang vội, ngược miền lũ dâng”.
                                                (Khau Vai phiên tình)
  Có lẽ cả Á Đông nói chung và Việt nam nói riêng có một chợ tình mang mầu sắc của phương Tây, mà Minh Hiền đã minh chứng được.Quả là “tình đầu dễ mấy ai quên” họ ngược cả “miền lũ dâng” để đến với nhau cho dù núi cao vực thẳm. Với bước chân
lãng tử của một văn nghệ sĩ từ vùng cao xa xôi chị lại về thăm mộ nhà thơ Nguyễn Bính : 
                  “Tôi về thăm mộ nhà thơ
            Hoa xoan rụng tím ngẩn ngơ tình đời
                  Chẳng còn cái dậu mồng tơi
            Cửa cài then đóng ở nơi nhà nàng
                                             (Thăm mộ Nguyễn Bính)
      Viếng mộ Nguyễn Bính mà chị ngậm ngùi cho mối tình của nhà thơ quá cố. Chị thấy “đầy đồng sắc cỏ hương bay / Hậu sinh Nguyễn Bính xin vay thơ tình / Áo the ai đứng đầu đình / Mớ ba mớ bẩy trăng rình ngắm em”. Cũng như Nguyễn Bính chị lo cho những em gái dại khờ :
                 “Em ơi lên tỉnh chớ lâu                                   
          Ngày về nhớ vẹn nguyên mầu chân quê”
                                       (Đọc thơ Nguyễn Bính)
      Bước chân của chị đặt trên mọi miền đất nước. Về quê Bác làng Sen Minh Hiền không quên đến Hà Tĩnh tới ngã ba Đồng Lộc thăm viếng mười cô gái thanh niên xung phong đã ngã xuống cho Tổ Quốc hồi sinh :
         “Ngã ba Đồng Lộc mười cô con gái
          Cuốc xẻng bồ cào san lấp hố bom
          Trinh trắng tươi nguyên một thời phơi phới
          Hiến dâng mình cho đất nước vẹn nguyên”.
     Có lẽ Minh Hiền sinh ra để đi và viết, đi mãi rồi chị lại về với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nơi có mồ mả ông cha, nơi có lời ru của mẹ, có tiếng
võng đưa kẽo kẹt, có cánh diều bay bổng tít từng không :
           “Tôi lại về thân thương giữa miền quê
            Nơi sinh ra có ngôi nhà yêu dấu
            Nơi có tình mình ngày đêm nung nấu
            Sáo diều ngân mãi đến buổi hoàng hôn”.
                                                    (Bức tranh quê) 
    “Quê hương là chùm khế ngọt”.Ai ai cũng có một miền quê, nơi chứa chất đầy những kỷ niệm buồn vui, nơi chia sẻ vơi đầy nỗi lòng, “nơi có tình mình ngày đêm nung nấu”. Nơi có “cổng làng mắc nợ bước chân”đã “trải bao năm tháng vẫn xoay vần” vẫn “rêu phong loang lở phủ dầy”và vẫn “cong cong mái lợp phủ đầy thời gian”, để mọi người :
                    “Xa đi nhung nhớ chứa chan
              Về gần thao thiết nồng nàn cổng quê”
                                                            (Cổng làng)
     Cổng làng thân thương là vậy, và cũng là nét văn hóa đặc chưng của dân tộc Việt Nam. Từ bậc danh
nhân tiến sĩ đến mọi người dân đều qua cổng làng. Khi bước chân ra đi tha hương cho lúc về với quê hương làng xóm thân yêu cũng qua cổng làng. Người lính bồng súng ra đi cứu nước cũng qua cổng làng. Người con gái đi lấy chồng nơi đất khách quê người, lúc trở về thăm mẹ cha cũng qua cổng làng. Cả khi trút hơi thở cuối cùng để về nơi cực lạc cũng qua cổng làng… Trong nhộn nhịp thời mở cửa, từ làng lên phố nhiều nơi đã đánh mất đi cái đẹp thuần túy đó, Minh Hiền đã xót xa cho những vùng quê ấy:
                     “Làm gì còn gốc cây đa
               Mà trèo quán dốc thương ta với mình
                   “Tìm đâu ra luống rau lang
               Bờ tre rặng chuối mơ màng bãi dâu”.
                                                          (Còn đâu)
    Tuy vậy chị vẫn bắt gặp những mối tình trong trắng ngây thơ của nam thanh nữ tú trong làng, họ yêu nhau thật giản dị, những kỷ niệm ngập tràn hương đồng gió nội, mang đậm mầu sắc của một vùng quê thanh bình, họ yêu nhau bắt đầu từ:
        “Áo trắng em nhuộm tím quả mồng tơi
        Anh vẽ hình trái tim lấp ló
        Hai nhịp đập xốn xang mạch nhớ
­­­­­­­­        Kỷ niệm ngập tràn hương bưởi hương chanh”.
                                           (Hoài niệm tháng năm)
Tình yêu đôi lứa hồn nhiên là vậy, rất giản dị, nồng nàn, xao xuyến một miền quê yên ả. Về tình cảm gia đình, về mẹ chị viết đằm thắm thiết tha mặn nồng:
           “Lâu lắm rồi con mới về thăm mẹ
           Gió đông buồn lạnh buốt chiều cuối năm                           
           Căn buồng xưa vẫn ướt chỗ mẹ nằm
           Ông bình vôi tha thẩn nơi góc cửa”
                                                    (Về quê nhớ mẹ)
       Gió đông về càng làm cho nỗi buồn nhớ người mẹ đã khuất thêm da diết, mẹ lúc nào cũng hết lòng
vì con “căn buồng xưa vẫn ướt chỗ mẹ nằm”, chỗ khô ráo mẹ nhường cho con. Người đi rồi bình vôi vẫn còn đấy, bao kỷ niệm vẫn còn đây. Cả đời chị “canh cánh bên lòng / hình bóng mẹ hư vô mờ ảo”. “Tháng ba” là tháng nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất với chị, cũng từ “tháng ba” chị vĩnh viễn không còn nhìn thấy mẹ! Lúc ấy chị còn bé lắm, nên tình cảm chị bị dồn nén, thơ chị được dồn nén, nên đã bật ra những cảm xúc nghẹn ngào :
            “Tháng ba nào con cũng về  với mẹ
         Khói hương trầm nghi ngút lệ hàng mi
              Mẹ ra đi ngày ấy còn gì
         Con canh cánh không thể vơi nhớ mẹ”
                                                 (Lời ru tháng Ba) 
     “Tháng ba” như của riêng chị, không gian đầy ắp những nỗi buồn man mác, như chơi vơi hẫng hụt, bởi chị luôn nhớ đến mẹ, chị luôn thiếu tình cảm của mẹ:
          “Không gian này như thể chơi vơi!
            Con tìm mẹ trong muôn và thương nhớ
            Nụ bòng bòng, xanh xanh e ấp nở
            Cầu ao mùa này chẳng thấy mẹ.Tháng ba”.
                                               (Tháng ba với tôi)
   Càng thiếu thốn tình cảm bao nhiêu, thì con người ta càng giầu tình cảm bấy nhiêu. Minh Hiền, chị là con người đa sầu đa cảm, nên thơ của chị rất giầu tình cảm, hình bóng mẹ như theo suốt cuộc đời chị :
                 “Mẹ đi buồn cả hàng cau
           Chum tương chát mặn, trầu đau úa vàng”
                                                               (Nhớ mẹ)
     Đọc những dòng tâm sự này mà thấy xót xa.“Sểnh còn chú, sểnh mẹ bú dì”.Chị rất may mắn được dì ruột cưu mang, nên chị coi dì như mẹ đẻ của mình :
                     “Hai quê ở giữ chợ Đu
                Còng lưng dì cõng lời ru mẹ về
                      Cỏ may ấm áp chân đê
                 Đội sương sướt mướt tiếng quê gọi dì”.
                                                             (Mẹ dì của con)
       Đọc thơ Minh Hiền ta còn thấy chị là một người vợ chung thủy, hiền thục, khéo léo, mềm mỏng với chồng, thật hài lòng có một người vợ như chị. Gia đình chị thật hạnh phúc:                                                                                                                         
              “Anh đừng buồn vì người khác yêu em
                Đã là hoa phải có nhiều người ngắm
                Bông hoa đẹp siêu lòng người say đắm
           Đủ sắc mầu tạo hóa đã tăng riêng”.
                                                      (Anh đừng buồn)
     Gia đình hạnh phúc là điều mong ước của nhiều
người, với các con chị luôn ôn lại những kỷ niệm xưa của bà, của ông để con cháu noi theo :
                    “Mẹ ngồi lục lại nhớ quê
                 Mo cau còn gói nắm cơm xa nhà
                       Ngủ ngon đi cháu của bà
                  Bát cơm nguội vét thật thà vào xưa”
                                                 (Tiếng vọng lời ru)
     Tập thơ “Tháng ba”của Minh Hiền là những lời tâm tình chị viết ra từ máu thịt ruột gan mình, lời thơ đằm thắm thiết tha da diết, câu thơ đẹp, giản dị mang nhiều mầu sắc dân tộc, gần gũi với quần chúng. Nhiều ngôn từ mới lạ nhưng không cầu kì, cấu tứ chặt chẽ, nên cuốn hút độc giả. Thơ của chị còn phản ánh được cái thực của xã hội thời mở cửa, sự hi sinh tình yêu đôi lứa để giừ gìn biên cương biển đảo. Xin các độc giả hãy chia sẻ cùng chị, để chị có giầu cảm xúc viết nhiều bài thơ hay hơn nữa. Chúng ta hãy đón đọc nhưng tập sau của chị.

                                                                                              Nghiêm Thản



CHIẾC ÁO TƠI HAY BÓNG MÁT CỦA MẸ
QUA THI PHẨM “ÁO TƠI MẸ MẶC”
CỦA NGUYỄN THỊ LỘC


ÁO TƠI MẸ MẶC

      Áo tơi mẹ mặc một thời
Che mưa, che nắng, che trời bão giông
      Hai sương một nắng trên đồng
Cái nắng tháng sáu mưa giông ngày hè
      Chang chang nắng, mưa dầm dề
Áo tơi nón lá đi về sớm trưa
      Khi ruộng cấy, lúc cày bừa
Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu
      Con nghe mẹ kể lần đầu
Tưởng rằng câu chuyện nơi đâu xa vời
      Áo tơi mẹ mặc một thời
Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay
      Áo tơi nghĩa mẹ cao dày
Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi

                                             Nguyễn Thị Lộc

 Lời bình của Nghiêm Thản

     Cái áo tơi được xem là phương tiện hữu hiệu nhất thường được làm bằng lá cọ khâu từng lớp chồng lên nhau như lợp ngói mái nhà, dày chừng 10mm để che nắng che mưa, chống rét, còn có thể trải ra thay chiếu nằm để nghỉ ngơi hoặc có thể dùng để làm mâm dọn cơm ăn, hay dùng để đùm chè để giữ cho chè (trà) xanh tươi. Ông cha ta ngày xưa nghèo khó chiếc áo tơi còn được dùng làm chăn đắp trong những ngày giá rét. Từ thời xa xưa áo tơi ra đời nhằm mục đích che mưa,  nhưng ngày nay thường được dùng để chống nắng nóng, hạn chế tia nắng chiếu thẳng xuống lưng và giảm mồ hôi khi đi ngoài trời hoặc khi làm việc ngoài đồng. Người nông dân mỗi khi làm việc ngoài trời không thể thiếu được chiếc áo tơi, mang theo được chiếc áo tơi là yên tâm lắm, Trong ca dao có câu:
      “Trời mưa thì mặc trời mưa
Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi”.
     Bài “Áo tơi mẹ mặc” của tác giả Nguyễn Thị Lộc đã nói nên được điều này:
      “Áo tơi mẹ mặc một thời
Che mưa, che nắng, che trời bão giông
      Hai sương một nắng trên đồng
Cái nắng tháng sáu mưa giông ngày hè
     Hình ảnh chiếc áo tơi che nắng che mưa của tác giả Nguyễn Thị Lộc được phác họa lên lại là hình tượng của người mẹ, người mẹ suốt đời che chở cho con. Câu “Áo tơi mẹ mặc một thời”chỉ là nghĩa đen của một thời mẹ còn sức lao động, nhưng câu “Câu che mưa, che nắng, che trời bão giông” thì tác giả lại biến cái thực thành cái ảo. Ở đây hình ảnh chiếc áo tơi lại là mái ấm tình thương của người mẹ, là mái nhà, là bóng mát che chở cho đàn con. Người mẹ tần tảo “hai sương, một nắng trên” đồng bất chấp cả những khi thời tiết vô cùng khắc nghiệt như “cái nắng tháng sáu” và “mưa giông ngày hè” suốt ngày lăn lộn ngoài trời khi “chang chang nắng”, lúc “mưa dầm dề”. Tấm lòng của người mẹ là vậy. Để có được bát cơm manh áo người mẹ đã không quản chi khó nhọc:
      “Khi ruộng cấy, lúc cày bừa
Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu”
     Người mẹ chịu thương chịu khó là vậy, chiếc áo tơi che trên lưng người mẹ cũng chính là người mẹ đang che chở ôm ấp những đứa con. Vậy nên hình ảnh chiếc áo tơi chính là bóng hình của người mẹ thân yêu. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng đã viết về chiếc áo tơi khi nghĩ đến mẹ:
“Tay mẹ héo ruộng bậc thang cấy rẽ
Tôi đỡ lấy chiếc áo tơi của mẹ
Mụn cua càng bò trên mảng sân con
Tháng tám khói lên lúa xuống đòng đòng”
                         (Trường ca biển – Hữu Thỉnh)
     Nói về chiếc áo tơi là vậy. Nhưng xã hội luôn luôn phát triển, ngày nay chiếc áo tơi không còn phổ biến nữa mà dường như đã mai một đi, cái phương tiện che được cả nắng cả mưa, và nhiều tác dụng khác như chiếc áo tơi đã được thay thế bằng những thứ khác như áo mưa bằng chất liệu nilon gọn nhẹ, và những chiếc ô dù xinh xắn. Nói đến áo tơi lớp trẻ hiện nay, trừ những vùng nông thôn thuần túy hầu như không mấy ai còn biết. Cũng giống như nói đến cái ao ngay cả những vùng nông thôn đổi mới đã đô thị hóa rồi, các cháu ít tuổi không còn biết nữa. Vậy thì Bài thơ Áo tơi mẹ mặc” lại làm sống lại một thời ông cha ta đã dùng nó như một vật dụng hữu hiệu, Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã lật lại những trang văn hóa cổ xưa của ông cha ta, và chiếc áo tơi luôn là hình ảnh của mẹ:
      “Áo tơi mẹ mặc một thời
Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay”
      Cả bài thơ tác giả chỉ nói về tác dụng của chiếc áo tơi đã che nắng che mưa cho mẹ, và những gian khổ của người mẹ nuôi con. Nhưng chỉ hai câu kết ta mới vỡ ra rõ ràng rằng áo tơi chính là mẹ, mẹ là chiếc áo tơi:
        “Áo tơi nghĩa mẹ cao dày
Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi”
     Nói về nghệ thuật đây chính là cách ví von so sánh chuẩn mực, đưa hình ảnh chiếc áo tơi để kích tấm lòng của người mẹ lên đến cao trào của bài thơ, chỉ hai câu cuối cũng đã làm cho bài thơ lung linh tỏa sáng cả bài thơ. Đây chính là nghệ thuật của người cầm bút trong lối sử dụng ngôn ngữ trong thơ.
      Chỉ với 14 câu lúc bát với những ngôn từ rất đời thường, mang dáng dấp màu sắc giai điệu dân ca, rất mượt mà và súc tích, tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc hiểu thêm được lịch sử phát triển của loài người trong lao động đã biết dùng những vật dụng gì để bảo vệ sức khỏa của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh chiếc áo tơi để biến thành hình tượng người mẹ. Đây chính là nghệ thuật rất khéo léo khi viết thơ, là vết chấm son của tác giả Nguyễn Thị Lộc. Xin chúc cụ khỏe mạnh vui cùng con cháu và viết nhiều bài thơ hay hơn nữa.

                                                                                             Nghiêm Thản



TA HÃY XEM NỮ SĨ KIM QUY  BUỐN BÁN NHƯ THẾ 
NÀO QUA THI PHẨM “PHEN NÀY QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN”

PHEN NÀY QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN

      Rong chơi ngày tháng thêm buồn
Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền
      Tôi gom gió bán cho thuyền
Mang con sóng dữ bán miền biển khơi
      Đem mây bán cả cho trời
Làm mưa rơi xuống được lời lúa non
      Nhặt lên những lối đường mòn
Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng
      Tay cầm lên những búp măng
Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người
      Cuối cùng còn mỗi nụ cười
Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô
      Thèm mua một cái ô tô
Chở làn quan họ bán cho sông Cầu
      Có tiền mua cái nhà lầu
Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình

                                               Kim Quy


Lời bình của Nghiêm Thản

      Châm ngôn có câu “Phi thương bất phú”. Thật vậy nghèo thì buôn thúng bán mẹt mới có đồng ra đồng vào, lớn hơn một chút thì buôn bán chợ nọ chợ kia, lớn hơn nữa thì buôn tàu bán bè, mở các cửa hàng cửa hiệu, mở các công ty, buôn bán với nước ngoài, mở rộng thương mại ngoại thương trên toàn cầu…
      Ngay đề bài tác giả đã làm cho độc giả phải tò mò, có phải chăng đây là một tứ mới lạ: “Phen này quyết chí đi buôn”. Nghe có vẻ quyết tâm lắm! có lẽ tác giả muốn làm tỷ phú chăng. Nhưng nó không mang tính trào lộng như bài “Chúc nhau“Phen này ông quyết đi buôn cối” của Trần Tế Xương. Ta thử xem Kim Quy chị buôn những gì và bán được cái gì cho thiên hạ.
      Những bài thơ hay dù ở thể loại nào, thường câu mở bài và câu kết liên quan với nhau rất chặt chẽ. Ta có thể ghép câu đầu với câu cuối cũng đã có thể trở thành một bài thơ tương đối hoàn chỉnh dù 2 câu hoặc 4 câu. Truyện Kiều Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta” và câu kết: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Đúng thế, chỉ 2 câu lục bát, câu đầu và câu cuối cũng đã cho chúng ta thấy cái chuyện trăm năm trong một cõi đời người nó vô cùng lắm, nhưng nếu để mua vui với nhau thì dài lắm cũng chỉ một vài trống canh là hết. Trong bài thơ của Kim Quy chị mở đầu:
      “Rong chơi ngày tháng thêm buồn
Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền”.
      Dù chị viết cho chị hay chị viết cho ai đó cũng thế thôi, người ta có thể khẳng định rằng con người này rất mực phong lưu. Biết bao người phải lao tâm khổ tứ mới kiếm được miếng cơm manh áo, nhưng con người trong thơ của Kim Quy thì lại “thêm buồn” vì suốt ngày suốt tháng “rong chơi”, Vì thế mới nẩy sinh ra cái ý nghĩ “quyết chí đi buôn”. Nếu ta ghép 2 câu đầu với 4 câu kết:
      “Thèm mua một cái ô tô
Chở làn quan họ bán cho sông Cầu
      Có tiền mua cái nhà lầu
Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình”
      Bây giờ ta mới thấy cái tư tưởng táo bạo của tác giả, muốn mua cả xe hơi nhà lầu chỉ để phục vụ cái đẹp mà chúng ta đang thực hiện là sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng, một nếp sinh hoạt đã có từ đời Trần là các “Tao đàn thi ca”. Những tổ chức ấy nay chúng ta gọi là câu lạc bộ… Thơ là vậy, nó mang tính đặc trưng, ước lệ, thực tế khó có mấy ai làm được việc này, (trừ bà Y Kim Linh vợ nhà thơ Nghuyễn Đình Chiến, đang ở xã Văn Võ, huyện Chương Mỹ, Hà Nội đã xây một ngôi nhà lưu niệm cho chồng và hiện nay các CLB thơ vẫn tổ chức tới thăm viếng). Nhưng dù sao câu thơ cũng đã chuyển tải được ước mơ của riêng tác giả và chung của mọi người.
      Câu kết tác giả đã biến cái tôi thành cái ta, cái riêng thành cái chung đó là những ước vọng của nhiều người. Nhưng chúng ta chưa biết Kim Quy chị buôn những gì và liệu có tiền để thực hiện ước mơ lớn lao của mình hay không ta xem tiếp những câu tiếp theo, thì ra tác giả Kim Quy cũng là một nhà buôn sành sỏi:
      “Tôi gom gió bán cho thuyền
Mang con sóng dữ bán miền biển khơi
      Đem mây bán cả cho trời
Làm mưa rơi xuống được lời lúa non
      Nhặt lên những lối đường mòn
Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng”
      Những câu thơ trên chứng tỏ cho chúng ta thấy chị buôn bán rất có nghề, rất cao tay, chị biết những mặt hàng của mình phải bán cho ai, những đối tượng nào cần mua để bán. Chị “gom gió” để “ bán cho thuyền”, vì lẽ thường thuyền rất cần gió để căng buồm và “Thuận buồn xuôi gió” thì việc gì cũng xong. Chị “mang con sóng dữ” để “bán cho miền biển khơi”. Ở đây qua từ “ Sóng dữ” chứng tỏ đây là sự tìm tòi, và lao động nghệ thuât chứ không còn là viết của tác giả, bởi nó mang tính logic, những thứ dữ tợn thì bán cho ai, “ chó dữ mất láng giềng” nữa là, cho không người ta lấy cho còn là may. Nhưng nếu bán cho biển khơi thì có khi lại được nhiều tiền, bởi biển hiền hòa là thế nhưng nhiều khi cũng hung dữ vô cùng. Chị “đem mây bán cả cho trời” câu thơ đã hay còn đẹp, mang đầy tính họa trong ngôn ngữ thơ. Những câu thơ đẹp thường các tác giả hay vận dụng hình ảnh trăng hoa, núi non, sông nước, sơn thủy hữu tình… Ở đây Kim Quy vẽ cho ta thấy một bầu trời mây thật đẹp thật yên bình, đầy những đám may trắng để chuẩn bị cho những cơn mưa. Ta hãy xem Kim Quy dùng từ, chỉ một từ “cả” cũng đã cho ta thấy câu thơ đầy tính nhân văn, bởi nếu mây là đối tượng mua  để làm “mưa rơi” tưới mát cho con người, cho ruộng đồng cỏ cây hoa lá, thì rẻ cũng bán, mua tất cả cũng bán. Câu thơ ảo mà thật, chị “nhặt lên những lối đường mòn” để rồi bán cho sườn núi, vì dưới sườn núi thường là nhưng lối đường mòn, những lối đi của người sơn cước, những lối mòn của những cặp vợ chồng khi chồng say mèm nằm vắt lên lưng ngựa để vợ đưa về cho trọn nghĩa vợ chồng cho “tròn vầng trăng” là vậy. Câu thơ:  “Bán cho sườn núi” để “tròn vầng trăng” tưởng như vô lý, bởi bán “ những lối đường mòn” cho “sườn núi” thì làm sao mà “tròn vầng trăng” cho được, có cái gì để làm được điều đó. Những bước chân của người sơn cước làm nên lối đường mòn để tìm đến miếng ăn, tìm đến manh áo, tìm đến hạnh phúc, nơi anh đi là lối em đưa về, để khép lại thành quĩ tích của đường tròn, để tình yêu thêm tròn trịa thì lại là có lý.
      Chỉ 3 cặp lục bát mà tác giả đã cho ta thấy kẻ cần mua người cần bán rất tâm đầu ý hợp. Chưa đủ, Kim Quy còn dựng nên cảnh mua bán thật sinh động:
      “Tay cầm lên những búp măng
Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người”
      Tác giả đặt ra một câu hỏi tu từ thật tuyệt. Trên đây tác giả đã dựng lên 4 mặt hàng “gió, sóng dữ, mây và lối mòn”, kẻ thuận mua và người vừa bán, còn thứ măng non để bán cho bụi tre, cho tre thêm ấm bụi. Có phải chăng Kim Quy muốn nói rằng trên hành tinh này ai cũng mưu cầu hạnh phúc. Hình ảnh tre ấm bụi cũng đã cho ta thấy sự ấm áp rồi. Câu thơ là một câu hỏi, nhưng lại tự trả lời, đó cũng là lối viết rất độc đáo của Kim Quy. Chị đã dựng lên một cảnh mua bán có tình có lý, cái thì muốn bán hết đi dù rẻ cũng bán, cái thì rẻ như cho không cũng muốn bán và nụ cười hả hê đã đến với chị:
      “Cuối cùng còn mỗi nụ cười
Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô”
      Niềm vui trọn vẹn đã đến với chị, “nụ cười” chính là niềm vui của chị và cũng là niềm vui của cả nhân loại. Chúng ta chỉ chia vui với nhau chứ chẳng ai đem cái niềm vui của mình đi bán để rồi chuốc lấy khổ đau.
       Bài thơ không dài chỉ với 16 câu lục bát thật ngọt ngào êm dịu, mượt mà đằm thắm, bố cục rất chặt chẽ, phần kết rất có hậu. Kim Qui chị đã đẩy nội dung bài thơ lên đến cao trào, một cảnh mua bán với những mặt hàng ảo mà thật rất sinh động có mua có bán và có cái cương quyết mang về không bán đó là niềm hạnh phúc của tác giả và trong mỗi chúng ta. Đây là sự lao động nghệ thuật, chị đã tìm được một tứ thơ mới lạ, nhưng ngôn ngữ thân quen như lời nói cửa miệng mà bắt độc giả phải suy ngẫm. Chị đã biến cái riêng thành cái chung của nhân loại, đó là tính nhân văn, là lòng nhân ái và những ước mơ của chị cũng như của mọi người. Xin chúc mừng chị

                                                                                            Nghiêm Thản



GIỌT MƯA HAY GIỌT SẦU
QUA THI PHẢM “MƯA” CỦA THẨM BÌNH

MƯA

      Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!
Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng
      Giọt sầu se sắt tơ lòng
Giọt đau nức nở người trong cõi mồ.

                                                         Thẩm Bình

Lời bình: Nghiêm Thản

     Do sự vận hành của trái đất trong hệ mặt trời, hay nói một cách khác tạo hóa đã sinh ra con người, sinh ra trái đất thật kỳ diệu. Trên mọi miền của hành tinh xanh đã xảy ra thời tiết khác nhau, nơi nắng nơi mưa, nơi mát mẻ ôn hòa, nơi bão tố phong ba… Đã và đang ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống con người, tác động đến tâm tư tình cảm con người. Mưa. Cũng chỉ là mưa, từ thời cổ xưa, có nơi hạn hán kéo dài thì con người lập đàn cầu cho mưa thuận gió hòa, khi có được giọt mưa con người sung sướng xiết bao. Nơi thì mưa nhiều gây nên lũ lụt làm thiệt hại biết bao tài sản và đời sống của con người đã bao công tạo dựng.
     Viết về đề tài mưa, là chủ đề mà nhiều người viết, bởi mưa tác động đến con người thật nhiều. Trong thi phẩm “Mưa” của nữ sĩ Thẩm Bình ta thấy một nỗi buồn man mác trong chị, hình như nó đeo đẳng theo chị suốt cuộc đời. Mỗi lần mưa kéo dài lê thê dầm dề rả rích càng khơi dậy nỗi buồn trong chị, buộc chị phải kêu lên:
                    “Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!”
     Có lẽ chị không chịu được nỗi buồi da diết khi nghe những giọt mưa tí tách bên thềm. những giọt mưa như đang thấm lạnh con tim, như đang bào vào từng làn da thớ thịt chị, như muốn cướp đi những niềm vui, những khát khao, những ước mơ, những đợi chờ, trong khi chị mất mát quá nhiều chăng. Câu thơ dù chị viết cho chị hay chị viết hộ cho người khác vẫn làm động lòng người đọc. Với cụm từ “Thôi đừng mưa nữa” ta đã thấy cái tâm trạng khó chịu của con người khi thời tiết không bình thường. Câu thơ như một câu nói cửa miệng người đời, nhưng ta thấy tác giả đã đi từ hướng nội sang hướng ngoại, đi từ cái thực tại chẳng ai muốn mưa dầm dề kéo dài lê thê dẫn đến tâm trạng buồn buồn của con người. Cũng như nhà thơ Lê Nghiêm đã viết:
                          “Huế ơi! Sao Huế mưa nhiều rứa?
                    Mưa rầm rì rả rích mãi không thôi!” 
      “Thôi đừng mưa nưa mưa ơi!” Câu thơ nghe buồn đến não ruột khi tác giả liên tưởng đến những số phận không may mắn của con người:
                    “Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng”
    Thẩm Bình thương bao hạt mưa vỡ ra rồi nổi trôi thành bong bóng phập phồng, rồi lại tan như bóng xà phòng, hay chị thương cho những số phận con người không lấy gì may mắn. Đọc đến đây ta thấy rõ ràng Thẩm Bình viết cho số phận người con gái. Câu thơ đầy tính nhân văn, giọng thơ đầy chia sẻ. Một lối viết nhân cách hóa, một lối so sánh khéo léo. Đời người con gái mười hai bến nước, biết bến nào đục bến nào trong mà chọn, chỉ như hạt mưa sa, sa đâu ấm đấy, không may mắn phải chịu cảnh lỡ làng cũng đành cam chịu. “Thương bao hạt vỡ” Câu thơ như than vãn mà xé lòng xé ruột, có nỗi đau nào bằng khi cuộc đời người thiếu phụ đang sống bình yên hạnh phúc mà bị đứt gánh giữa đường, để rồi cam chịu cảnh phòng không lạnh lẽo, cô đơn thăm thẳm trong bốn bức tường, không người chia sẻ. “Hạt vỡ nổi trôi phập phồng” lại một ý nữa, Cuộc đời người phụ nữ thật khổ, chịu bao những thiệt thòi, mất mát, có phải chăng là những hạt vỡ chăng? Qua từ “phập phồng” ta thấy cái đoạn trường của người thiếu phụ. Bước đi bước nữa ư? Đi tìm một hơi ấm để an ủi cuộc đời, để quên đi những đau buồn chăng? Liệu bến mới có làm nguôi ngoai nỗi khổ không? Liệu có hết “nổi trôi” không? Chưa hết. “Trời mưa bóng bóng phập phồng / Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?”. Câu thơ chứa đựng bao câu hỏi, bao dằn vặt, chỉ một câu bát mà chứa bao hàm ý, đây chính là giá trị nghệ thuật của câu chữ, và cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ. Thẩm Bình đã biến giọt mưa thành những giọt sầu khiến người đọc phải trạnh lòng:    
                    “Giọt sầu se sắt tơ lòng
              Giọt đau nức nở người trong cõi mồ”.
     Thật vậy giọt mưa hay giọt sầu để lòng người se sắt lại. Nguyễn Du viết: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” Dù mối tình đầu hay tình cảm vợ chồng còn vương mãi trong  tim người phụ nữ. “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” kia mà quên làm sao được, kể cả khi đã bình yên nơi bến mới. Tiếng mưa tí tách rả rích hay tiếng lòng người thiếu phụ suốt nửa cuộc đời chỉ biết nằm nghiêng như nhà thơ NT cũng đã rất thông cảm và chia sẻ với những người vợ liệt sĩ:
      Nằm nghiêng, mình ở trong gương
Bao năm vẫn thế mình thương lấy mình
     Mơ màng, rạng ánh bình minh
Đã đôi chim sẻ dụ tình đuổi nhau.
     Khổ lắm chứ! “Ai nằm trong chăn mới biết chăn có rận” người ở lại thì “đau nức nở” Còn người đi xa có thấu hiểu cho chăng, những giọt mưa, những giọt sầu có thấm sâu vào đất nâu nứt nẻ, có thấu hiểu nỗi đau của người ở lại. Chắc “người trong cõi mồ” cũng không an lòng nơi chin suối. Trời càng mưa càng “se sắt tơ lòng”.
     Bài thơ Tứ tuyệt lục bát chỉ 4 câu nhưng đã chứa đựng bao tình cảm hàm xúc của người phụ nữ. Với cách sử dùng ngôn ngữ trong thơ rất đời thường, cách so sánh nhân cách hóa mà không trìu tượng, dễ hiểu, gây cảm xúc mạnh cho người đọc. bài thơ bố cục rất mạch lạc chặt chẽ, cách nén câu nén chữ để thể hiện đúng luật của thơ tứ tuyệt: Mở, thực, luận, kết mà vẫn biểu cảm được hết ý và tứ thơ. Đây là dấu chấm son của nữ sĩ thẩm Bình.Chúc chị có nhiều thành công trong sự nghiêm văn chương.

                                                                               Hà Nội ngày 14.12.2018
                                                                                       Nghiêm Thản



CÁI ĐẸP HỒN HẬU CỦA CÔ GÁI THỊNH LONG QUA THI PHẨM “TRẮNG TƯƠI THỊNH LONG” CỦA PHAM TÂM DUNG

TRẮNG TƯƠI THỊNH LONG

Ta về với biến Thịnh Long
Ngất ngây gió hát, trắng bông mây trời
Yếm trần, thể ngọc trắng tươi
Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.

Sóng xô, sóng níu, sóng đè
Sóng sao không đẩy em về phía tôi?
Bồng bênh giỡn sóng em cười
Xin em hãy nghé sang tôi một lần!

Tôi tìm trên cát dấu chân
Vô tình sóng lướt tội thân dã tràng
Trắng tươi - Trắng đến mơ màng
Mình tôi với biển lang thang. . . đi về...

                                  Phạm Tâm Dung


Lời bình của Ngiêm Thản

      Cũng là lang thang trên facebook để tìm những hạt vàng trong cát. Cũng là tính tò mò tôi tìm đến trang “Thi nhân miền Cổ tích”. Sao lại gọi là “miền cổ tích”, nghe là lạ. Nói đến cổ tích phải là cái gì đó rất xa xưa, có thể đi vào huyền thoại, nhưng đây lại là “miền”, đã là miền ắt phải là một địa danh nào đó. Không biết ai đó đã đặt ra cái tên này nghe thật thú vị và có cái gì đó rất sâu lắng. Nghe tưởng như vô lý, thì ra đây là nơi hội tụ của các thi nhân. Một mảnh đất rất thơ mộng có hai cây gạo, và cây si già hàng trăm năm tuổi, có chiếc “thuyền thơ” ở Thái Bình, là nơi các thi nhân đến để giao lưu thơ, là nơi có những thi nhân bao đời sinh cơ lập nghiệp, đã gắn liền với từng tế bào trong cơ thể họ, là nơi không bao giờ và không bao giờ có thế quên được. Vật đổi sao dời! Nay họ không ở nữa chỉ còn là chiếc “thuyền thơ” neo đậu. Trên trang này tôi bắt gặp bài thơ của một thi nhân miền cổ tích Phạm Tâm Dung. Nơi chôn nhau cắt rốn của chị lại là miền cổ tích. Nhưng chị không viết cho miền cổ tích mà chị viết cho một vùng miền khác, đó là biển Thịnh Long Hải Hậu Nam Định. Một thi phẩm có cái tên rất lạ “Trắng tươi Thịnh Long” bằng 12 câu lục bát mộc mạc, giản dị. Tác giả phải là người giầu cảm xúc lắm. Đứng trước biển Thịnh Long mà chị thấy cái đẹp đến thơ mộng, đến ngây ngất:
                  “Ta về với biến Thịnh Long
            Ngất ngây gió hát, trắng bông mây trời”
      Nhạc điệu của câu câu thơ nghe du dương êm dịu, nhẹ nhàng như một bản tình ca, còn có cái gì đó thèm ước khát khao, mơ mộng… Đọc hai câu mở đầu của bài thơ, nếu ai chưa đến biển Thịnh Long cũng phải đến một lần cho biết.  Trước cảnh đẹp mê hồn ấy tác giả không bỏ sót một chi tiết nào, chị còn thấy cái đẹp của những người đang sống còn lộng lẫy hơn:   
                 “Yếm trần, thể ngọc trắng tươi
             Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.”
      Khổ đầu tiên đã là một bản nhạc hay rồi còn là một bức tranh lung linh huyền diệu. Giữa cái ngân nga của “gió hát” cái thanh khiết của “trắng bông mây trời”, chị thấy “một vùng như thể cây quỳnh cành giao” toả ra thơm nức, chị còn thấy như “sẵn đúc một toà thiên nhiên” trước biển Thịnh Long. Bút pháp của chị làm cho giới mày râu phải ngây ngất, ngất ngây, phải dừng lại mà mường tượng, mà ngẫm nghĩ, đến mức hờn ghen cả với biển. Thế mới thấy được tình yêu quả là vô cùng mãnh liệt. chỉ mới thấy ngọc thể nõn nà, trong trắng và cái “bồng bênh giỡn đùa” tinh ngịch trong sáng cùng nụ cười tươi tắn của người phụ nữ đã mang lòng yêu rồi, đã phải lòng rồi, đã khát rồi, đã ghen rồi. Cái nhân vật “tôi” vô hình trong thơ của Phạm Tâm Dung như gào lên “Biển ơi! Sao chẳng thôi vỗ về” một cái ghen vô cớ thật đáng yêu, giống như cái lẳng thơ của Thị Màu mà ai cũng thích. Sóng là vật vô chi vô giác còn được cho vỗ về vuốt ve em. Còn mình thì không. Tiếp đến là những câu thơ mang đầy kịch tính, chị bắt đầu đẩy tứ thơ lên đến cao trào:
                  “Sóng xô, sóng níu, sóng đè
            Sóng sao không đẩy em về phía tôi?”
      Nhịp điệu thơ bắt đầu dồn dập hơn, chị cắt nhịp hai hai, để tạo câu thơ như từng lớp, từng lớp sóng cứ dồn dập, dồn dập hơn lên “Sóng xô, sóng níu, sóng đè” như tình yêu càng thêm bốc lửa. Cái ghen vô cớ bắt đâu trỗi dậy mạnh hơn, thấy sóng như kẻ tình địch đã xô, lại níu, đau hơn nữa còn đè lên ngọc thể của người mình yêu. Câu sau giọng điệu như dịu lại vì người đang yêu đã nhận ra rằng sóng vẫn chỉ là sóng. Sao tình yêu không đến với tôi, “Sóng sao không đẩy em về với tôi”. Ta cũng có thể suy luận thêm hình ảnh sóng lại là người chồng cô gái thì càng kịch tính hơn.
       Có thể nói đây là một câu thơ tài hoa. Biết đâu Phạm Tâm Dung lấy cái cớ mượn sóng và em để nói cái rất thật ở ngoài đời. Sắc đẹp như thượng đế của đàn ông, nhân vật em trong thơ Phạm Tâm Dung hay cô gái Thịnh Long như một thiên thần:
                  “Bồng bênh giỡn sóng em cười
            Xin em hãy nghé sang tôi một lần”
     Trong lúc “bồng bênh giỡn sóng” ấy, thì hoa nở trên môi. Chị đã nói hộ với giới mày râu rằng “Xin em hãy nghé sang tôi một lần”. Chỉ cần “nghé” thôi, một cái liếc nhẹ nhàng thôi để được bốn mắt gặp nhau, để hiểu nhau qua anh mắt cũng đã sung sướng lắm rồi, vì đó là cửa sổ của tâm hồn. Ở đây ta mới thấy rõ ràng là Phạm Tâm Dung đã biết chọn lọc ngôn ngữ, chứ không phải viết trong vô thức. Qua những cụm từ “bồng bênh” “nghé”. Sao chị không viết là “bồng bềnh” hay “bềnh bồng” hay là “lênh đênh”… Xét về ngữ nghĩa đều giống nhau cả mà chị chọn lấy từ “bồng bênh” bởi nghe như có cái gì đó khác hơn, một động thái của trò chơi tinh ngịch, khoẻ khoắn, vui vẻ, lành mạnh và rất hồn nhiên, chứ không phải “bồng bềnh” đồng nghĩa với “nổi trôi”, nếu vậy thì ý thơ sẽ rẽ sang một hướng khác. Còn từ “nghé” thì sao? Sao tác giả không dùng từ “ghé” cho nọn nghĩa hơn. Ở đây ta phát hiện thấy Phạm Tâm Dung đã thu nhập được cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du, “khách đà lên ngựa người còn nghé theo”. Đó là cái hào hoa phong nhã, lịch thiệp, cái rất con gái của người phụ nữ thể hiện đủ tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh”. Tác giả thật thơm miệng khi dung từ “nghé”. Phạm tâm dung là người đa sầu đa cảm chăng. Thơ chị như chia sẻ nỗi lòng với những người có mối tình đơn phương:
                  “Tôi tìm trên cát dấu chân
            Vô tình sóng lướt tội thân dã tràng
                  Trắng tươi - Trắng đến mơ màng
            Mình tôi với biển lang thang. . . đi về”
     Vậy là tác giả đã xây dựng một cuộc tình đơn phương nhưng lại đẹp bởi man mác buồn mà không đau khổ vẫn “trắng tươi” như biển Thịnh Long, “trắng tươi” như cô gái Thịnh Long. Hình ảnh con sóng biển xoá đi con dã tràng nhưng không xoá đi được tình yêu của người đang yêu vẫn “Trắng tươi - trắng đến mơ màng”. Cho dù biển xoá đi cả dấu chân em trên cát.
     Khổ thơ cuối cùng chúng ta lại thấy tác giả lập lại lần thứ 3 từ “trắng tươi”. Tên bài chị đã nói đến cái đẹp đến “trắng tươi” của biển Thịnh Long, lần thứ 2 chị nhắc đến cái “trắng tươi” của người con gái Thịnh Long. Lần 3 chị nhắc đến cái “trắng tươi” của cả biển Thịnh Long đến con người Thịnh Long. Từ “trắng tươi” là từ ta thường nói ra từ cửa miệng hằng ngày, càng không phải mỹ từ, ta lại thấy vừa quen vừa lạ, quen vì ngôn ngữ ta đang dùng thường ngày, lạ vì một địa danh mà lại “trắng tươi”. Tất nhiên, những người có nghề trong thơ họ sẽ hiểu ngay đây là cách viết ảo, hư mà thực. Mà có tả người con gái cũng chưa mấy ai nói là “trắng tươi”, chỉ một nét chấm phá thế thôi cũng đã làm câu thơ vừa sạch sẽ lại vừa đẹp. Chị viết cho người con gái Thịnh Long đẹp là thế. Tất cả những đường cong tuyệt mỹ, những quyến rũ giới mày râu được phát tiết ra từ cái “trắng tươi” của người phụ nữ, đẹp như một bông hoa vừa trong trắng, quyến rũ lại vừa tươi tắn hồn hậu.
     Rất cảm ơn nhà thơ Phạm Tâm Dung với bài thơ “Trắng tươi Thịnh Long”. Một bài thơ tình hay, chị đã chạm tới nỗi buồn của những ai có mối tình đơn phương. Cũng rất có thể còn là nỗi đau nữa, rất có thể người đang yêu lại là kẻ thứ ba. Chứng tỏ rằng Phạm Tâm Dung đang viết cái “tôi” mà lại thoát ra được để đi đến cái “ta”. Bài thơ sẽ đi cùng năm tháng, bởi ta đọc lúc nào cũng đúng, gắn vào thời điểm nào cũng đúng. Cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ của chị là sự sáng tạo, làm mới câu thơ từ những ngôn ngữ bình thường. Bài thơ đầy tính nhân văn, bởi tình yêu không bao giờ có lỗi, đã ca ngợi cái đẹp của con người, của non sông đất nước. Quả là tôi đã tìm được vàng trong cát. Chúc chị thành công trong sự nghiệp văn chương.    


                                                   
BÀN VỀ TỪ “HOANG HOẢI"

     Ngôn ngữ của loài người luôn luôn được phát triển và mất đi. Một ngôn ngữ mới được cấu thành hoàn thiện phải mất rất nhiều năm, có khi hàng thế kỷ mới hoàn thiện. Thí dụ: từ “cây” để chỉ chẵn 1 chục như cây vàng, cây thuốc lá… Hoặc từ “ngon” để chỉ một người con gái xinh đẹp nết na, đến bây giờ vẫn chưa được hoàn thiện, vì dùng từ này người ta vẫn thấy có cái gì chưa ổn, vẫn còn như xấc xược. Và một số từ cổ cũng phải mất nhiều năm mới dần dần mất hẳn đi như từ thiếp, thê…
     “Hoang hoải” là một từ mới không có trong từ điển tiếng Việt, mang tính trìu tượng, đang dần dần được hoàn thiện, trở thành một trạng ngữ. Thí dụ như từ “thao thiết” bây giờ đã tương đối hoàn thiện. Nhiều các nhà thơ nhà văn cứ thích khám phá tìm những ngôn ngữ mới để thể hiện mình, điều đó rất tốt vì đó là sự sáng tạo. Nhưng nhiều người lại dùng không đúng chỗ cho nên làm mất sự trong sáng của tiếng Việt.
     Dưới đây tôi xin được phân tích mổ xẻ tách rời hai từ ra để hiểu nghĩa từng từ một rồi lại ghép vào với nhau qua từ điển Hán Nôm để chúng ta thấy khi nào ta cần dùng từ “Hoang hoải” và dùng thế nào để diễn đạt được tâm trạng của mình trong tác phẩm để khỏi sáo rỗng, hoặc độc giả không biết mình biểu cảm cái gì:
(Hoang): Chửa hoang; hoang vắng, hoang vu; huênh hoang
(Hoang): hoang mang, vô định, hoang tưởng, mất bản lĩnh.
(Bải hoải): Bải hoải, mệt mỏi, rã rời. Hai từ này ghép lại với nhau không có trong từ điển tiếng việt, nếu ghép lại với nhau (hoang hoải) ta có thể hiểu:
     - Nhân vật ấy, con người ấy rất hoang mang và mỏi mệt, không tìm ra được giải pháp nào hay nhất để giải quyết vấn đề cần thiết, vì tinh thần rất hoang mang, thể xác thì bải hoải, mệt mỏi
     - Không gian ấy thật hoang vu, rộng lớn như giữa đại dương hay trong khu rừng rậm mênh mông bao la, mơ hồ, vô định, không lối thoát. Tinh thần thì hoang mang hoảng loạn, thể xác thì mệt mỏi bải hoải rã rời chân tay.
     - Con người ấy huênh hoang võ mồm, chém gió nhưng bên trong tinh thần thì bạc nhược, bải hoải, mỏi mệt
     - Cô ấy vì chửa hoang nên tinh thần bất ổn nên rất hoảng loạn, bất an, cơ thể thì suy sụp.
      Tóm lại ta định nghĩa thế nào cho đúng. Có thể là tâm trạng vừa hoang mang sợ hãi, hoảng loạn, không bản lĩnh, hoang tưởng, vừa mệt mỏi cả tinh thần lẫn thể xác. Hoặc là một khung cảnh vừa hoang vu, mênh mông, vô định, vừa nói đến con người mệt mỏi rã rời không biết đi đâu về đâu.
      Theo ý của riêng tôi, từ “hoang hoải” để đi đến hoàn thiện thì nó phải là trạng ngữ chỉ trạng thái, tâm tư tình cảm của một con người. Thí dụ ta có thể dùng: “Chiều nay tôi vô cùng hoang hoải”. Chứ một không gian, thời gian không thể dùng được từ này như có người đã dùng: “Chiều nay trên cánh đồng hoang hoải” hoặc “Giữa cánh rừng hoang hoải”, “Mênh mông hoang hoải biển chiều hôm”… hoàn toàn vô nghĩa.

                                                                                  Nghiêm Thản



TA HÃY LẮNG NGHE NHỮNG ÂM THANH KHI IM LẶNG CỦA NHÀ THƠ NGHIÊM THẢN QUA THI PHẨM “KHI TA IM LẶNG


KHI TA IM LẶNG

Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian đang thở…

Khi ta im lặng lúc sớm mai
Tiếng chim hót trong hơn ta thấy
Những cánh hoa khẽ động trên đài
Nụ mở, khoe sắc, thả hương …
Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau đớn
Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc xanh
Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm non.

Khi ta im lặng lúc ban trưa
Tiếng võng đưa kẽo kẹt
Tiếng ồn ào chật chội
Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen...
Khi ta lặng im lúc về chiều
Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió
Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền
xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm
Tiếng mầu tím ... thủ thỉ gọi tình yêu.

Đêm
Khi ta trầm tư sâu lắng
Văng vẳng tiếng rao đứt đoạn giấc nồng
Bé bông ngủ ngon tiếng thở đều đều
Trong lều tranh dựng tạm
bác xế - lô đang mơ những chuyến hàng
Chiếc đồng hồ gõ mạnh vào thời gian
Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột
Tuột khỏi tay! Lật mình người quả phụ thở dài
Trong suốt tiếng hạt mưa rơi
thấm sâu vào đất sâu nứt nẻ
Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi đá
chạm tới cội nguồn.

Ta hãy lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ
Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng người.

                                     Nghiêm Thản 

Lời bình: Xuân Hiến

     Trong sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống nơi phố phường nhiều khi những thanh âm trong trẻo dường như bị khỏa lấp bởi vậy tâm hồn ta có lúc hụt hẫng đi vào trạng thái trầm cảm. Vào một lúc nào đó chúng ta hãy im lặng để lắng nghe tiếng cuộc sống, tiếng thời gian thậm chí cả tiếng nhịp tim ta đang hướng ra chân trời rộng mở như lời RalphWaldo Emer: “Hãy im lặng và chúng ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của thánh thần”. Nhà thơ Nghiêm Thản cũng mang theo lời khuyên tương tự trong bài: “Khi ta im lặng”, một bài thơ giàu tính triết lý và có chiều sâu về tầng ý nghĩa. Mở đầu là hai câu thơ như lời đề từ giữ nhịp cho mạch thơ tuôn chảy:
         “Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống
          Nghe tiếng thời gianđang thở…”
     Nhịp sống và thời gian giao thoa để tạo nên bao điều kỳ diệu. Thời gian chuyển động và sự vật cũng hiện lên rực rỡ, đầy đủ sắc màu vốn có để hồn ta trầm lắng trong sự dịu ngọt, êm đềm. Hãy cùng tác giả “Khi ta im lặng” đi vào thời điểm ban mai để cảm nhận sự chuyển động không ngừng:
          “Khi ta im lặng lúc sớm mai
          Tiếng chim hót trong hơn ta thấy
          Những cánh hoa khẽ động trên đài,
          Nụ mở, khoe sắc, thả hương …
          Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau đớn
          Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc xanh
          Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm non.”
     Ở đây có những âm thanh cụ thể đó là “Tiếng chim hót”, “tiếng hạt cựa mình”, ngoài ra còn có những âm thanh mơ hồ như tiếng của “cánh hoa” đang nở, đang tỏa hương, rồi tiếng của cành cây, chồi non... đang cựa quậy. Trong sự tĩnh lặng của “Sớm mai” tiếng hót của chú chim cũng “trong hơn”, có phải nội lực sau một đêm nghỉ ngơi bây giờ mới được phát tiết ra? Hay buổi sáng trong lành nên mọi sự vật trở nên đẹp hơn trong sáng hơn. Hoa nở vào buổi sáng cũng vậy vừa “khoe sắc” vừa “thả hương” làm đẹp cho đời. Tác giả còn đem đến sự phát triển không ngừng từ việc “cành cây tích nhựa” để thành “chồi non”, “lộc biếc”. Sự sống ban mai thật đẹp qua cái nhìn, sự lắng nghe và cảm nhận bằng tâm hồn nghệ sĩ, tôi rất thích cách chuyển đổi của anh từ mùi vị của hoa thoảng vào trong gió cũng trở thành thanh âm như mơ hồ mà rất thật. Điều này giống với cách biểu hiện của nhà thơ Huỳnh Gia Trọng:
          "Có những lúc giật mình tỉnh giấc giữa khuya
          Nằm im lặng nghe tiếng rì rào của gió
          Xô những chiếc lá khẽ khàng rơi trên lối nhỏ
          Ngoài kia …
          Sương lạnh trắng khung trời".
                                       (Khúc tình ca không tên)
     Dòng thời gian như dòng sông vẫn êm ả trôi, đến nơi thác ghềnh thì cất lên âm thanh ồn ào, sôi động giống như thời gian ban trưa của nhà thơ Nghiêm Thản:
          "Khi ta im lặng lúc ban trưa
          Tiếng võng đưa kẽo kẹt,
          Tiếng ồn ào chật chội,
          Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen ..."
     Một điều đã trở thành quy luật, ta càng im lặng thì sự cảm nhận tiếng động càng lớn, bởi vậy tiếng “kẽo kẹt” võng đưa cứ như tiếng vọng tức tưởi dội vào lòng, tiếng võng còn đưa ta đến không khí oi nồng buổi trưa ở một miền quê có lời ru dịu ngọt, có tuổi thơ êm đềm với tâm hồn đằm sâu trong kỷ niệm. Rồi những “Tiếng ồn ào” khiến cho không gian trở nên “chật chội” đây là cách thể hiện mang được chiều sâu suy tưởng, còn nhiều điều uẩn khúc chia chưa sẻ được. Người đọc không chỉ cảm nhận được tần số âm thanh vừa hỗn độn vừa quá lớn mà còn cảm nhận không khí ngột ngạt vào thời điểm ban trưa. Câu kết cuối khổ “Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen ...” Đây  là lời nhận xét tinh tế của tác giả, với ba dấu chấm cuối câu anh muốn dành cho độc giả suy nghĩ tiếp. Hơi thở cuộc sống bao giờ cũng là chất liệu quý giá để văn nghệ sĩ tìm kiếm khai thác, bài thơ “Khi ta im lặng” cũng vậy trong không gian và thời gian buổi chiều, nhà thơ Nghiêm Thản đã dồn nén sự vật, bởi vậy ta cảm nhận được sức sống đang trào dâng và nóng hổi tính hiện thực:
          "Khi ta lặng im lúc về chiều
          Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió
          Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền
          Xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm
          Tiếng mầu tím… thủ thỉ gọi tình yêu"
     Năm câu thơ chỉ có một câu “im lặng” còn để bốn câu lên tiếng. Ta hãy lắng nghe giữa bầu trời xanh có âm thanh “Vu vơ” của tiếng sáo diều “gọi gió”. Qua từ "Vu Vơ" ta mới thấy cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ của tác giả rất chính xác. "Vu vơ" nghĩa là vô định, bâng quơ, không đâu, không có múc đích, không chỉ rõ một vấn đề cụ thể nào… Chỉ là "vu vơ". Nhưng lại không "vu vơ" chút nào bởi diều và gió vốn là bạn đồng hành, muốn tấu lên những bản nhạc của một miền quê yên ả. Vì vậy lời “gọi gió” quả là  lôgic. Tuy vậy chỉ có cái nhìn tinh tế của thi nhân mới nêu ra được. Có “Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền”  dù khẽ khàng nhưng vẫn ngân vang, náo nức và cả tiếng “gọi nhau về tổ ấm”  đem đến sự mơ ước đoàn tụ ấm êm sau một ngày bươn trải. Ta hãy lắng nghe âm thanh ngọt ngào của tình yêu lứa đôi “thủ thỉ”. Đây có lẽ là thanh âm trong trẻo bay bổng nhất bởi đó là lời của trái tim, lời của trai gái trong khúc hoan ca, lời của tình cảm kết tinh thành mật ngọt, yêu sao “Tiếng màu tím...” tiếng của những mối tình chung thủy.
      Khi màn đêm buông xuống những tất cả như lắng xuống. chỉ còn thấy những nốt nhạc của thiên nhiên, và những âm thanh không mong muốn. Đó là tiếng rao “Văng vẳng” của người bán hàng trong việc mưu sinh cơm áo, dù ai có “đứt đoạn giấc nồng” cũng xin cảm thông với người lao động. Câu thơ đầy tính nhân văn, đầy sự chia sẻ. Ta bắt gặp “tiếng thở đều đều” của “Bé bông” báo hiệu giấc ngủ ngon, sâu của một sinh linh bé nhỏ. Người lao động như “Bác Xế- lô “ cũng đang có những giấc mơ đẹp: Có nhiều chuyến hàng để tăng thêm thu nhập, đó là giấc mơ bình dị nhưng vô cùng cao cả, đúng như lời Dale Camegie nói : “Cuộc sống làm bạn buồn chán ư? Hãy lao vào công việc bạn tin tưởng bằng tất cả trái tim, sống vì nó, chết vì nó, và bạn sẽ tìm thấy thứ hạnh phúc tưởng chừng như không bao giờ đạt được”. Trong đêm khuya ngoài tiếng “thở dài”của người quả phụ tác giả còn sử dụng hình ảnh “lật mình” hai yếu tố kết hợp lại tạo ra nỗi buồn khôn nguôi, sự cô đơn, trăn trở… Đặc biệt cụm từ  “Tuột khỏi tay!”  được đảo lên đặt ở vị trí đầu để nhấn mạnh ý: Hạnh phúc đã cách xa tầm tay người thiếu phụ và đó là nguyên nhân của sự trằn trọc khó ngủ cùng với tiếng thở dài hòa vào lời ca buồn “Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột”. Ta hãy lắng nghe “hạt mưa rơi”, “trong suốt”, đây có phải giọt mưa của đất trời hay giọt tâm tình mà thi nhân đang hoài vọng để “Thấm sâu vào đất nứt nẻ”. Câu thơ đầy tính chia sẻ. Đọc đến đây tôi chợt nhớ đến bài thơ “Giọt nhớ”  của nữ thi sĩ Hạ Uyên Chi có đoạn:
          "Nghe rất nhẹ mùi thơm nồng của đất
          Thoảng dịu dàng khi mưa đổ vai anh
          Giọt mưa tuôn run rẩy đọng lá cành
          Lung linh chợt vỡ òa trong tia nắng"
     “Hạt mưa rơi” của Nghiêm Thản hay “hạt mưa đổ” của Uyên Chi rất đẹp lấp lánh như những vì sao mà ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, đúng như lời của George Sand: “Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người”. Trong màn đêm tĩnh lặng ta nghe được:
          "Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi đá
          chạm tới cội nguồn"
     Hai câu thơ giàu tính hiện thực nhưng mang được màu sắc của văn học nghệ thuật. Tác giả như sợ chiếc lá rơi thôi cũng đụng đến mồ mả đất cát, đụng đến tổ tiên ông bà ông vải, là những anh linh của tổ tiên đang yên giấc ngàn thu. Người đọc có thể nhìn sự vật đa chiều, tác giả đã làm được điều mà một triết gia cho rằng: “Không có thi nhân, không có nghệ sĩ, con người sớm chán ngấy sự đơn điệu của tự nhiên” Ba câu thơ cuối vượt lên trên lời khuyên, đặt ra một vấn đề mới:
          "Ta hãy lặng im, lắng nghe nhịp sống
          Nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ
          Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng người".
     Đây là lối kết mở, đưa mọi người tới những triết lý giản dị mà sâu sắc, hãy lắng nghe đồng loại để hiểu sâu rộng hơn cuộc sống, để rồi ta khỏi phải nuối tiếc khi thời gian đã trôi vào quá khứ. “Lặng yên ta sẽ nghe rõ tiếng người”, câu thơ vô cùng ám ảnh cho người đọc, như bắt người đọc phải lặng yên mà nghĩ ngẫm. Bởi nếu không lặng yên, không nghe rõ được tiếng người thì là tiếng gì? Câu thơ mang đầy tính triết luận, bởi tiếng nói của con người là tiếng nói của nhân loại, mang đầy màu sắc của cuộc sống.
      Bài thơ “Khi ta im lặng” thuộc dòng thơ triết luận, từ điểm sáng im lặng để ta nghe, ta thấy bao điều trong cuộc sống giống như một lăng kính hội tụ muôn màu lấp lánh. Được viết theo thể tự do, không chú trọng nhiều đến hiệp vần nhưng bài thơ vẫn mượt mà bay bổng, giai điệu uyển chuyển theo thời gian không gian của bài thơ. Có lẽ đây là khởi sự từ tiếng nói tâm hồn của một thi nhân có nhiều vốn sống, đã từng bươn trái, đã từng gai góc. Bài thơ tuy hơi dài nhưng không hề dàn trải, bố cục rất mạch lạc, những âm thanh được thoát khi im lặng từ sớm, trưa, chiều, tối rõ ràng. Bài thơ còn là sự chia sẻ cùng độc giả
     Bạn bè xa gần rất mừng cho thi nhân Nghiêm Thản, anh viết khỏe thơ thấm đẫm chất lý trí, biện luận, giàu tính hiện thực, cách dùng ngôn ngữ rất đời thường dễ hiểu như muốn gửi những thông điệp của mình để cùng chia sẻ với bạn đọc. Nhưng vẫn giữ được sự lãng mạn từ trái tim đa sầu, đa cảm. Gần đây tác giả có nhiều tìm tòi sáng tạo phát hiện nhiều tứ thơ độc đáo. Mong anh không ngừng phát huy khả năng đó.

                                                                               Hà Nội tháng 8/2014
                                                                                       Xuân Hiến



CHÍN VÍA CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HAY NHỮNG MẢNH ĐỜI KHÔNG MAY MẮN TRONG TẬP THƠ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” CỦA MINH HIỀN

Tham luận

     Đây là tập thơ thứ hai sau tập “Tháng ba”của Minh Hiền Với tập thơ đầu tay chị viết sâu nặng về tình cảm gia đình về cha về mẹ, về quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì tập thơ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” bút pháp của tác giả lại như một ống kính tiềm năng, nhìn ra xã hội, nhìn về quê hương đất nước, nhìn tới biển đảo, và nhất là nhìn xuyên thấu hết tất cả những góc cạnh  cuộc đời của những người phụ nữ phải âm thầm cam chịu đau khổ để dành hạnh phúc cho con cháu mình.CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG hay là chín bậc tình yêu, và cũng là thân phận của những người phụ nữ không may mắn.
     Còn với tình tình yêu đôi lứa chị nhìn thấy cuộc đời đẹp như mơ:
       Nếu khao khát, chớ hững hờ
      Vòng tay ấm áp nối bờ yêu thương
           Tím mùa giăng lối bờ sương
      Khói lam lan tỏa chín phương trời chiều”.
                                                                  (Trăng cô đơn)
Chị viết như chính chị đang yêu, một tình yêu cháy bỏng luôn nhớ đến vòng tay ấm áp bên bờ yêu thương. Tình yêu đẹp là vậy, nhưng đôi lúc họ vẫn ngờ vực chưa hẳn tin tưởng, sợ như sắp tuột khỏi tay nhau, và họ nói với nhau những lời ân ái:
Anh biết đâu, những lúc buồn em khóc
Thổn thức trong đêm hay tiếng lòng nức nở
Em lang thang từng góc đường nhung nhớ
Nhé đừng buồn, không một phía đâu anh”.
                                                  (Không phải một phía)
     “Không phải một phía” đồng nghĩa với từ hai phía, mặc dù một trong hai phía yêu nhau mà không nói nên câu, không nói được thành lời. Đó cũng là một trong tứ đức (Công, dung, ngôn, hạnh ) của người phụ nữ Việt nam, của người Á Đông. Yêu thì rất yêu nhưng nói được lời yêu không dễ chút nào. Thơ của chị viết như nó hộ những người đang yêu, chị hóa thân vào người đang yêu để nói những lời yêu như hờn như trách:
“Anh đổi màu em, bằng bẩy sắc cầu vồng
Vô tình thôi, nụ cười em biến mất
Tuột nhau rồi, tím chẳng tròn trong mắt
Tím vẫn là màu tím của riêng em”.
                                                 (Mầu tím riêng em)
      Có lẽ tác giả là chuyên gia của tình yêu, nên thơ của chị mới mượt mà êm ái như đánh thức con tim. Và không ít người “lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu”, để rồi hối tiếc cuộc đời mình, để rồi ‘quá nửa cuộc đời vẫn chửa biết yêu”. Nhưng viết về những cuộc tình không trọn vẹn thì ống kính của chị như thấu hiểu được lòng người, xót xa cho chị em phụ nữ như những giọt mưa sa, như những con đò, như “chín ngọn gió đồng” mộc mạc chân chất quê mùa:
           “Đò không ai bỏ bến sông
      Nhạc tre rót khúc thinh không vào lòng
           Vàng hoe chín ngọn gió đồng
      Thương con đò nhỡ cứ chòng vòng trôi”.
                                                                (Đò không)
     Bài thơ “Lệch” là những câu thơ tài hoa, tác giả đã khắc họa nên một cuộc tình không cân xứng, một cuộc tình không trọn vẹn:
            “Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
      Sợ ngày nắng rát để duyên cạn mùa
            Sợ mưa bong bóng cứ đùa
      Sợ giông hờn gió cứ ùa vào tôi
            Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
      Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng”.
                                                                    (Lệch)
Một khi tình yêu không còn thấy những tín hiệu đồng điệu nữa, thì làm sao mà dung hòa được với nhau, đi tìm xuôi thì toàn thấy ngược, muốn lên cao thì toàn thấy thấp, chỉ thấy những bi đát trong cuộc đời. Họ sợ cuộc đời cứ tối tăm mãi, họ sợ những cơn bão lòng cứ vô tình ập đến, bởi hai người “như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Cũng là tình yêu, nhưng giữa tình cảm lứa đôi và tình cảm vợ chồng khác nhau nhiều lắm. Là tình yêu chưa đến hôn nhân họ có thể trút bỏ tất cả cho nhẹ lòng, nhưng đã là vợ chồng thì không dễ dàng gì, cố sống được với nhau cũng chỉ là cái vỏ bọc của tình yêu
            “Còn một chiếc ảnh là chung
      Tôi đem cất giữ nhớ nhung bào mòn
            Ấy là cái lúc còn son
      Tươi vui hồng đỏ đẹp giòn tình ta”.
                                                          (Có - không)
      Viết về những cuộc tình éo le ngang trái không trọn vẹn, nhà thơ Minh Hiền cứ như người trong cuộc, “đi thì cũng dở ở không xong”, còn có bao nhiêu điều dàng buộc. Chị cảm thông và xót xa cho những người phụ nữ lỡ bước sa chân phải âm thầm gánh chịu bao nhiêu đau khổ về mình để rồi:
            “Cạn khô nước mắt thu rồi
      Em ngồi đếm đoạn một thời ấy… xanh
            Rậm rì mấy đám cỏ tranh
      Vênh vang quăng quật một nhành hoa lan
       Em ngồi đếm cái đa đoan
                           Thẳng lưng mà cõng trái ngang cuộc đời”.
                                                                               (Cuộc đời)
      Những người phụ nữ kia đã khóc hết nước mắt rồi. Có con chim nào muốn giam hãm mãi trong lồng, có con người nào họ muốn quanh quất trong bốn bức tường, dù đó là lầu son gác tía. Tất cả đều muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn mà tập tục lễ giáo phong kiến còn để lại, gieo vào đầu họ; để cuộc đời họ phải gánh chịu:
      “Lẻ chiều rong ruổi phù vân
Bốn bề gió nát vũ vần về đâu?
      Vượt rào lại sợ sông sâu
Buồn cùng với nhớ thi nhau cồn cào
                                                       (Vượt rào)
      Nhưng số phận thật trớ trêu: “Em muốn sống một chút thảnh thơi / Bởi đã đi gần hết quãng đời còn lại / Người lạc hồn sẽ lỡ lầm mãi mãi / Sẽ gánh cả đời tê tái nỗi đau”. (Vỏ bọc). Lời thơ của chị như muốn chia sẻ nỗi niềm đầy vơi với những người phụ nữ ấy. Chị dùng ngòi bút của mình phê phán những ông chồng vô trách nhiệm với gia đình với vợ với con, lẽ ra họ phải biết bổn phận làm chồng và có trách nhiệm với con cái. Thế nhưng:
            “Vợ mình ông vứt một bên
      Mải say trong tiếng nhạc nền véo von
           Người tình không đáng tuổi con
      Huếnh hoang bán cả lúa non vì nàng”.
                                                                  (Ông bạn già)
     Là một văn nghệ sĩ Minh Hiền thấy gì viết lấy, thơ của chị như những trang bút ký, chị ghi lại những gì trong xã hội, chị buồn lòng với những em gái chân chất quê mùa: “Em đâu có phải chân dài / Một thời lội ruộng, vàng hoe da màu (Lầm lỡ) thế mà vẫn đua nhau lên tỉnh hòng mong được cuộc sống an nhàn mát mặt hơn, nhưng có ngờ đâu:
        “Phố phường chật ních,lỏng lơi
Có nhà làm việc có nơi kiếm tiền
        Làng vơi đi những lời nguyền
Bầu ơi! Bí rợ, nợ duyên hỡi đời”.
                                                    (Lên tỉnh)
      Trong phố phường chật chội chị nhìn thấy hết đủ mọi mọi thành phần, với những người bán than lấm lem, lam lũ ngòi bút của chị đầy lòng nhân ái như muốn chia sẻ nỗi vất vả trong cuộc sống mưu sinh:
        “Than hai sọt cao quá đầu
  Cái đen cứ bám dãi dầu đời anh
       Nhào nặn suốt cả năm canh
  Mồ hôi đen đúa, quẩn quanh cơ cầu”.
                                          (Người bán than)
      Minh Hiền với tấm lòng nhân ái, nhân hậu, chị cảm thông và thấy thương những người phải lao động cực nhọc để kiếm sống, mưu sinh. Trong những lúc mủi lòng ấy chị lại nhớ tới những người mẹ suốt đời ở vậy tần tảo nuôi con:
    “Trời mưa bong bóng phập phồng
                    Mẹ chẳng lấy chồng, ở vậy nuôi con
                Tháng năm lận đận héo mòn
          Mẹ ơi! Giấu mãi dáng son đâu rồi”.
                                                                 (Dáng mẹ)
      Trong xã hội không ít những người mẹ đã hy sinh cuộc đời mình để nuôi con, ngòi bút của tác giả đã ghi lại tất cả những gì chị nhìn thấy nghe được. Rồi chị ngậm ngùi nhớ tới mẹ mình, chị cố đi tìm lại dấu tích xưa, người đã mang nặng đẻ đau sinh thành ra mình:
             “Con về đây tìm lại dấu tích
Tháng ngày chất nặng kỷ niệm xưa
Và con đếm thời gian
Một thoáng thôi!
Mấy mươi năm... Xa mẹ”.
                                       (Tìm lại dấu tích)
      Nhớ tới mẹ, là chị lại nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, có bao nhiêu tình cảm vơi đầy:
                            “Giếng làng thôn nữ múc trăng
              Sông Hào nước sạch, thay bằng giếng bơm
                        Đường quê vấn vít rạ rơm
  Cầu Tây, hoa trái vẫn thơm đôi bờ”.
                                               (Cầu Tây)
      Có lẽ thể thơ lục bát là thế mạnh của Minh Hiền, chị viết cho quê hương là vậy, còn với các con lại luôn tự hào nay đã thành đạt, chị lại gieo vào lòng các con những vần thơ lục bát ngọt ngào để động viên các con:
            “Gắng công học hỏi nên người
      Lao tâm khổ tứ đầy vơi trăm bề
          Giỏi lý thuyết, giỏi tay nghề
      Vẫn chân chất vẫn người quê thật thà”.
                                              (Chúc mừng con)
      Là người giầu tình cảm, nên chị mến những người lao động vất vả, chị thương cha nhớ mẹ, quý con quý cháu, thân thiện với bạn bè, yêu quê hương đất nước. Tâm hồn Minh Hiền như trải rộng ra, trước cảnh đẹp của núi rừng làm chị bâng khuâng xao xuyến:
                      “Em ngỡ ngàng đứng dưới ngàn cây
Tiếng chim ríu ran, nắng đùa trong kẽ lá
Rừng nguyên sơ, một bên là vách đá
Chợt thấy lòng mình nhẹ bẫng gió đưa”.
                                                 (Đến với rừng)
      Yêu quê hương đất nước bao nhiêu chị càng nhớ tới công ơn của Đảng, Bác Hồ kính yêu cùng các bậc lão thành cách mạng bấy nhiêu. Với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên và Đại tướng Võ Nguyên Giáp chị viết:
             “Mang mũ sao về quê mẹ bình yên
              Mắt dõi trông từng làn sóng biển
                Hồn còn hướng về Điện Biên tha thiết
               Lòng đất Vũng Chùa, Người đâu dễ ngủ yên”.
                                                        (Ký ức Điện Biên)
      Đại tướng Võ Nguyên Giáp và “chín năm kháng chiến trường kì” đã “làm nên một Điện Biên”. Tác giả cùng cả nước rất biết ơn những người lính đã từng trèo đèo, lội suối, khoét núi ngủ hầm, mưa dầm gió bấc, không sợ gian nguy khó khăn khổ ải. Đi qua một góc phố cổ giữa lòng Thủ Đô Hà Nội nhìn thấy cây rau tàu bay, chị lại nhớ tới các chiến sĩ Trường Sơn:
Dưới chân tường cây chửa ra hoa
Lá biếc xanh làm nên thời hoa đỏ
Rừng Trường Sơn một đêm trăng tỏ
Kí ức hiện về còn đó một bài ca”.
                                                     (Rau tau bay)
      Đất nước đã hoàn toàn thống nhất, nhiệm vụ của mỗi người dân, mỗi người lính vẫn còn nặng nề, chúng ta vừa xây dựng đất nước vừa giữ vững những vùng biên cương hải đảo, bảo vệ chủ quyền của đất nước. Với tình yêu của tuổi trẻ đan xen quện vào với tình yêu đất nước chị viết:
Tháng sáu này nhớ em đến diết da
Hãy yên lòng, dõi theo anh canh đảo
                   Sự tham lam sẽ là điều mờ ảo
                   Lịch sử ngàn năm, đã khẳng định chủ quyền”
                                                                                    (Nơi đảo xa)
      Tập thơ CHÍN NHỌN GIÓ ĐỒNG nhà thơ Minh Hiền qua thấu kính của mình, dường như chị đã thấy được “chín vía”của người phụ nữ, khi đầy khi vơi, khi hao khi gầy. Góc nhìn của chị thông qua những vần thơ khi ngọt ngào êm dịu, khi da diết yêu thương, lúc dẵn vặt trách than, lúc thương lúc nhớ. Để chúng ta hiểu thêm về tình cảm của chị với con người, với thiên nhiên, với xã hội...

                                                     Nghiêm Thản



NHỮNG TÌNH CẢM CHÂN CHẤT, ĐẬM SẮC MÀU DÂN CA LÀ NHỮNG TRANG NHẬT KÝ VIẾT BẰNG THƠ TRONG TẬP THƠ “TÌNH THU” CỦA ĐỖ ĐỨC NĂM

Có lẽ tôi là người may mắn hơn cả, được nhà thơ Đỗ Đức Năm tặng cho tập bản thảo tập thơ “Tình thu”. Đây là tập thơ thứ 2 sau tập thơ “Dáng chiều” của anh, đang chuẩn bị xuất bản, cả hai tập chủ đề chính để anh đặt tên tập thơ đều mang một màu sắc của cái tuổi đã xế chiều nhưng sức sống còn đang đầy nghị lực. Anh nguyên là giáo viên dạy toán nhưng tâm hồn lại đầy chất lãng mạn, có tâm có đức nên anh đã len lỏi đi vào từng câu chữ của thi ca. Cái chất dân ca từ lời ru của mẹ, từ tiếng trống chèo, đến các câu hò điệu ví… Đã ngấm sâu vào máu thịt anh, để tâm hồn anh gửi cả vào thơ. Hiện anh đang là chủ nhiệm CLB thơ lục bát Phú thọ, hội viên HVHNT Lâm Thao. Anh đã có rất nhiều thi phẩm được đăng rải rác trên các báo của địa phương và trung ương. Anh là một người con luôn gắn bó với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi có mồ mả Tổ tiên ông bà ông vải, có cha có mẹ, những người thân, và biết bao những kỷ niệm thời ấu thơ, nơi có chợ quê thanh bình yên ả dù chỉ “Dăm người bán, vài người mua / Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng”  “Không nói thách, chỉ một câu / Người mua người bán gặp nhau hài lòng” (Chợ quê). Dù đi đâu về đâu anh vẫn nhớ về nơi quê cha đất Tổ có chiều dài 4000 năm lịch sử mà anh và cả nước tự hào:
         “Tình người đất Tổ thân thương
                  Mỗi lần gặp mặt vấn vương cả đời
                        Chè xanh xanh ngát bên đồi
                  Cọ xòe ô thắm che người phương xa.”
                                                         (Tình người đất Tổ)
     Với quê hương bao giờ cũng là niềm tự hào của mỗi người dân Việt nam. Anh là người con của đất Lâm Thao Phú thọ nơi có vua Hùng dựng nước, và giữ nước, nên anh sẵn có dòng máu Lạc Hồng, anh đã viết những vần thơ đầy lòng yêu nước với niềm tin phơi phới:
                      “Mùa xuân anh lên đường nhập ngũ
                      Cùng trang lứa bao điều nhắn nhủ
                      Anh vững tâm súng trắc trong tay
                      Bảo vệ quê hương đất nước này”
                                          (Tiễn anh lên đường nhập ngũ)
     Anh không nói cho riêng anh, anh nói chung cho mỗ con người trong mọi thời đại, chí làm trai không bao giờ nợ nước, thân làm gái vẫn một dạ sắt son. Con người dân đất Việt là vậy. Anh đã viết những vần thơ trung với nước, với cha mẹ anh càng nặng lòng hơn, anh khóc bằng thơ: "Cha mẹ ơi! Thấu lòng con / Có nghe con nấc khóc mòn giấc đêm” (Mẹ). Là người con hiếu thảo sao quên được công ơn cha mẹ, suốt đời tần tảo úp mặt xuống đất, bán lưng cho trời, những vần thơ anh viết như khơi dậy tình mẫu tử:
     “Lo cho con được đủ đầy
                    Mẹ manh áo mỏng chất đầy tình thương
                        Chỉ còn da bọc lấy xương
                    Bao nhiêu tươi tốt mẹ nhường phần con.”
                                                                 (Mẹ)
     Với công cha nghĩa mẹ biết viết sao cho đủ đầy, đã có hàng vạn vạn bài thơ viết về cha mẹ, mỗi người chỉ một bài thôi, nếu đặt lên bàn cân có thể nặng tới hàng tấn, nói vui nếu đổ có thể đè chết người. Điều đó đã minh chứng cho lòng hiếu thảo của tác giả đối với cha mẹ. Nhà thơ Đỗ Đức Năm viết không ít những bài thơ như thế. Từ những bài Vu lan báo hiếu, Mẹ, Vần thơ dâng mẹ, đến những bài Ngôi nhà, Vu lan nhớ cha mẹ, Quà con… Đó là những vần thơ anh viết để kính dâng cha mẹ, còn tình nghĩa vợ chồng thì sao? Chắc một tâm hồn thi sĩ như anh không phải đắn đo câu: “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”. Anh càng kính cha kính mẹ bao nhiêu thì anh lại yêu, lại thương vợ bấy nhiêu, là phụ nữ, là người vợ ai không thích, ai không mát lòng hả dạ, ai không thấy hạnh phúc hơn khi nghe những vần thơ mượt mà như thế này khi anh viết tặng vợ nhân này lễ Quốc tế phụ nữ:
“Ta dắt tay nhau đi giữa dòng đời
Thăng trầm nhiều lắm em ơi!
Mỗi lúc vui, niềm vui nhân gấp bội
Và khi buồn ta chia sẻ cùng nhau!”
                                   (Thơ tặng vợ nhân ngày 8.3)
      Thật hạnh phúc trong tình cảm vợ chồng khi cùng “dắt tay nhau đi giữa dòng đời” cùng chia sẻ những đầy vơi, cùng chung một túp lều lý tưởng, buồn vui có nhau. Thơ anh đầy tính nhân văn, vợ chồng anh hạnh phúc là vậy, nhưng không thể ngậm ngùi khi vợ chồng bạn mình phải xa nhau để mưu sinh trong cuộc sống:
      “Em đi anh nhớ anh mong
Vầng trăng khuyết lạnh ngóng trông xứ người
      Em đi tắt cả tiếng cười
Đường xưa đâu dấu chân người lại qua.”
                                                          (Em Đi)
     Có lẽ tác giả là con người đa sầu đa cảm, nên thơ anh đầy tình cảm, đầy nhựa sống. Anh là giáo viên dậy môn tự nhiên, mà tình cảm thày trò của anh dạt dào, đằm thắm “Hai lăm năm đã trôi qua / Tình thày trò vẫn mặn mà như xưa” để rồi:
                   “Gặp nhau giọt lệ rưng rưng
             Bao điều muốn nói ngập ngừng trong ta...
                   Đời vui rạng rỡ như hoa
             Bao nhiêu kỷ niệm vỡ oà con tim.”
                                               (Tình Thầy trò)

     Con người anh là vậy, thơ anh là vậy. Anh phải là người giáo viên yêu nghề lắm, yêu học sinh lắm, nên anh mới viết được những vần thơ gan ruột như thế, anh đã gửi tất cả tâm huyết của mình vào từng câu chữ:

                   “Thanh tao chẳng mộng sang giầu
            Oằn vai gánh chữ nặng sâu nghĩa tình
                  Nghiệp đời gắn với học sinh
            Chữ TÂM chữ ĐỨC nặng tình nước non”.
                                                                                 (Thày)
      Đỗ Đức Năm anh là con người trung nghĩa trung tình, có hiếu với mẹ cha, thiết tha trìu mến yêu quí học trò, dạt dào nồng mặn với bạn bè, nên khi gặp lại bạn đồng môn anh đã ghi lại tình cảm của mình bằng nhưng câu lục bát ngọt ngào:“Trao nhau kỷ vật làm tin / Mấy khi có dịp ta tìm về nhau / Cùng ôn kỷ niệm ban đầu / Dồn vào ký ức khắc sâu cuộc đời!” (gặp lại đồng môn). Anh còn là một con người luôn yêu thiên nhiên hoa lá cỏ cây, cảnh vật nên anh đã viết cả một chùm thơ mùa thu đầy thi vị cuộc đời:
                  “Thu về sen lại chia tay
            Ai ngồi khắc khoải nhớ ngày chia xa.
                                                                          (Thu)
      Thơ anh viết về mùa thu nhưng lại liên tưởng đến con người, vũ trụ chuyển vần hết hạ sang thu, đông tàn rồi lại sang xuân. Cũng như con người tan hợp, hợp tan, câu thơ ảo mà thật. Anh là người có tâm hồn lãng mạn nên không tránh khỏi được ý tưởng giao du khắp mọi miền, thơ của anh như một trang nhật ký, anh đã ghi lại những kỷ niệm của mình qua mỗi chuyến đi, khi đến Vũng Tàu anh như trẻ lại khi gặp bạn bè:
                   “Vũng Tầu ơi! Anh Đến rồi 
             Gặp em vui với bao người xung quanh 
                    Sóng chiều giữa biển trong xanh 
             Ngọt ngào em đã đón anh nồng nàn.” 
     Dấu chân anh như một bước chân lãng tử, anh đi khắp mọi miền đất nước từ bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà nẵng mến yêu đến Bà nà nơi bồng lai tiên cảnh, rồi tới thành phố Đà lạt ngàn hoa đua nở, các vùng biển, anh không quên ghi lại những kỷ niệm của mình:
                “Bất ngờ trời đất mở ra
          Lạc vào biển cả bao la chưa từng
                Một đời quen với núi rừng
          Gặp nhau bãi biển như chừng khó tin.”
     Thơ của đỗ Đức Năm viết đa dạng về thể loại từ thơ tự do đến thơ đến thơ đường luật nhưng anh vẫn có thế mạnh về thơ lục bát. Hầu như tất cả thơ anh đều viết theo chiều mặt phẳng, dễ hiểu dễ đi vào lòng người, tình cảm chân chất, đậm màu sắc dân ca, ngôn ngữ không hoa mỹ nhưng gây nhiều ám ảnh nên dễ cảm hoá độc giả. Tác giả còn nhiều hứa hẹn với độc giả. Xin chúc mừng anh.
                                
                                                                                              Nghiêm Thản












                                                                        













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét