NGHIÊM THẢN
Thư từ biển đảo
và
lời bình
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
HÀ NỘI 2019
Phần1
thơ
THƯ TỪ BIỂN ĐẢO
Gom hết lửa lòng để đốt cháy tình yêu
Sống giữa đại dương mà ta vẫn khát
Một bát canh chua, chùm sấu non lúc lỉu
Hà Nội ơi! Ngàn năm văn hiến đất Thăng Long.
Đây Trường Sa gửi nỗi nhớ vào mong
Em vẫn tự hào có anh là lính đảo
Quả bàng vuông chịu bao nhiêu giông bão
Có ai về, cho ta gửi mặn tới người yêu.
Giữa nhà giàn anh mơ những buổi chiều
Cùng gỡ cỏ may dưới triền đê tắt nắng
Có gì đẹp hơn tuổi hồng trong trắng
Nụ hôn dài lẫn nước mắt tiễn anh đi.
Em có mong ngày ấy - lễ vu qui
Hai đứa mình chắp tay cùng cầu nguyện
Biển đảo là nhà, của ta vĩnh viễn
Để chúng mình mãi mãi chẳng xa nhau.
Mẹ thương con nỗi thương cha
Khi còn giặc giã vắng nhà Tết mong
Khi mẹ - lúa ấp đòng đòng
Vì dân nợ nước bằng lòng xa nhau.
Bây giờ sương điểm mái đầu
Lại mong có một nàng dâu thảo hiền
Con đi giữ đảo triền miên
Có nghe tiếng vọng đất liền ầu ơ…
Nhớ con mẹ vẫn hằng mơ
Tết này sum họp mẹ chờ mua cau
Nhà mình sẵn có giàn trầu
Dậu mồng tơi vẫn xanh mầu tươi non.
Vai gầy mẹ đã mỏi mòn
Vành nôi vẫn ngọt, vẫn tròn lời ru
Nắng lên tan hết sương mù
Trường Sa mẹ thấy… Cho dù xa khơi.
MÙA ĐÔNG
ĐI QUA
Sương mù thôi cản lối
Rét đậm đã đi qua
Mây vỡ ra - nắng ấm
Chợ đủ mầu sắc hoa.
Sá cày chờ đổ ải
Vạt mạ đã xanh rờn
Cúc tần vàng bờ dậu
Én nghiêng chao mây vờn.
Chị cả ngồi đãi đỗ
Mẹ đang rửa lá dong
Đàn ong
Rưng rưng bàn thờ tổ
Ánh đèn nến lung linh
Nét rồng bay phượng múa
Ông nội viết chữ Bình (平
).
Bố từ đảo Trường Sa
Năm nay về vui Tết
Đây chính là món qùa
Đẩy mùa đông đi qua.
SÓNG BIỂN
Khi bão tố, sóng gồng mình chống đỡ
Lúc nhớ thuyền, sóng dào dạt gọi bờ thương
Nơi đất liền, anh biết em nín lặng
Đảo xa khơi, áo lính bạc gió sương.
Biển trong xanh gió trời lồng lộng
Biển của ta, trời đất của chúng ta
Từng đoàn thuyền trở về ăm ắp cá
Hả hê sao, những con sóng hiền hoà.
Phía trời Bắc mây sầm sì kéo tới
Trời đất đổi thay những con sóng đỏ ngàu
Giàn khoan lớn cắm sâu vào lòng biển
Bị xâm phạm chủ quyền, con sóng quặn đau.
Không thể chiến tranh, chúng ta đòi công lý
Lịch sử ngàn năm còn dấu ấn địa danh
Bỏ hận nhỏ, để rồi mưu việc lớn
Lòng kiên trung, đại đoàn kết tất thành.
Dòng máu Lạc Hồng sử xanh còn đó
Con cháu Thoát Hoan, chắc nhớ mãi ống đồng
Bàn cờ tướng còn nhiều thế trận
Lớp lớp sóng dồn, theo nhịp bước cha ông.
CHỜ THƯ ANH
Bờ vai gầy vẫn còn nồng hơi ấm
Của những ngày hai đứa bên nhau
Vòng tay anh ghì em xiết chặt
Tình yêu lên ngôi, đang nhiệm sắc
mầu.
Em vẫn đợi mùa đông trở lại
Nhen ngọn lửa lòng sưởi ấm cho nhau
Nơi đảo xa truyền thông không thể tới
Cánh nhạn hồng, làm cầu nối bờ vui.
Có những lúc em một mình lầm lũi
Chờ thư anh, lại thấy cô đơn
Nghe cơn bão đi qua vùng biển đảo
Thấy xao lòng, lo lắng nhiều hơn.
Gió biển mặn, và nhiều cát bụi
Anh đang thừa, xin gửi đỡ cho em
Nơi đất liền như người có lỗi
Thư lần này em gửi cả nụ hôn.
TẾT VẮNG ANH
Thế là lại thêm một mùa Tết nữa
Anh vắng nhà tất cả ngóng trông
Nồi bánh chưng em cời thêm lửa
Con ngây thơ khen má mẹ hồng.
Bàn thờ Tổ vẫn lung linh đèn nến
Em chắp tay cầu phúc được an lành
Hương khói nhang cuộn tròn thành dấu hỏi
Mọi người đã về sao còn thiếu vắng anh.
Nơi biển đảo nhạt nhòa nắng gió
Anh có nghe con hỏi bố lúc giao thừa
Anh có thấy pháo hoa tưng bừng nở
Gió lạnh se lòng, trời lất phất mưa.
Anh có thấy xuân ùa về gõ cửa
Nhà đầy hoa, quất lộc, đào hồng
Mâm cỗ tết em vẫn so thêm đũa
Như vẫn có anh – có hơi thở ấm nồng.
TRỞ VỀ
Ngan ngát hương đồng, ngan ngát quê
Hoa màu xanh mướt dưới chân đê
Sông quê uốn khúc đôi bờ cỏ
Cò trắng bay ngang rủ nhau về.
Sắc hồng còn thắm dưới hồ sen
Lều vó nhà ai đã lên đèn
Chớm gió heo may se se lạnh
Anh trở về đây về với em.
Em mộc mạc quê vợ anh quê
Cỏ may quấn quýt lối anh về
Chồng đi biền biệt bao khao khát
Anh trở về đây về với quê.
Này quà của mẹ quà em đây
Bao nhiê năm tháng - bấy vơi đầy
Áo mới của con này sách vở
Anh trở về đây, trở về đây.
GẶP LẠI EM GÁI QUÊ
Tôi bị chìm trong màu cỏ sắc áo
Đắm mình trong không khí thể thao
Tôi gào lên Việt Nam chiến thắng
Lớp lớp sóng người nghiêng ngả, ngả nghiêng.
Tôi ngỡ ngàng!
Thấy em bước ra trường đấu
Em cô gái thổi cơm rơm ngày ấy
không phấn son má đỏ bừng bừng
mà hôm nay mạnh mẽ thế tiến công.
Em cô gái hương đồng gió nội
bỗng thét vang, vọng mãi võ trường
Em cô gái tóc dài thơm hương sả
Nón quàng tay đầu ngả ngắm lúa non.
Quắc mắt lên em chuẩn bị ra đòn
Đòn quyết định, em là người chiến thắng
Cả võ trường rung lên sau vài giây nín lặng
Kết thúc rồi ngực lấp lánh huân chương.
HÀ NỘI VÀO ĐÔNG
Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa
Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi
Đèn cao áp như mờ hơn một chút
Thương cây bàng một mình đứng đơn côi.
Dạo đường Thanh Niên em quấn thêm khăn cổ
Cái rét đầu mùa làm em nhớ đến anh
Quanh đống lửa xoè tay tìm hơi ấm
Nơi đảo xa anh có nhớ đất Hà Thành!
Góc phố nhỏ thoảng đưa mùi ngô nướng
Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay
Gói lạc rang trong lòng tay âm ấm
Anh có về tìm lại chút men say.
Hà Nội vào đông, không an em buồn lắm
Hàng liễu bên hồ vẫn buông thả mành xanh
Em chờ anh - em chờ hơi ấm
Anh chậm về em sợ cạn mùa đông.
ĐỢI
Anh mơ em gọn lỏn vòng tay
Đang xiết chặt những ngày xa cách
Nghe ai hát “Nhà mình chung vách”
Anh mơ màng…Em ở bên anh.
Ngước nhìn trời những ánh sao xanh
Sông Ngân Hà cách xa vời vợi
Biển trùng khơi, những ngày chờ đợi
Sợi tơ trời ai thả mãi vấn vương.
Quen khổ rồi, anh không ngại gió
sương
Câu thơ ấy, làm lòng anh đau đáu
Như tim em vẫn đang còn rỉ máu
Vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
Nơi đảo xa anh nhớ em hoài
Điện thoại gọi, ngoài vùng sóng phủ
Tình trong thơ, chưa bao giờ đủ
Đợi ngày về, bốn mắt nói với nhau.
HÃY TỰ TIN
Có tham đâu mà sao nhiều hoài vọng
Để biển khát khao lấp mãi chẳng đầy
Đi giữa trời mưa mà sao vẫn khát
Rễ bám đất sâu, cây vẫn hao gầy.
Khi con chim bay khỏi lồng tù túng
Soải cánh bay nhưng vẫn sợ điều gì
Thuyết tự do, và những điều luân lý
Đừng hoang lòng bão táp sẽ đi qua.
Qua mỗi sân ga, đường đời ngắn lại
Bao thăng trầm và những đắng cay
Dẫu mong manh như cánh diều trước gió
Hãy yên lòng, còn có luật trả vay.
Ta hãy sống như muôn người đang sống
Đống tro tàn, chỉ ở kẻ dối gian
Biển bình yên nhưng cũng nhiều sóng
gió
Ta hãy tự tin, hạnh phúc sẽ dâng tràn.
GIỮA MÊNH MANG BIỂN
Trên nhà giàn gió mặn reo lồng lộng
Giữa biển trời Tổ Quốc rộng mênh mông
Anh lại nhớ những ngày cuối tháng
Dáng hình ai in bóng nước dòng sông.
Quên sao được dưới ráng chiều chạng vạng
Hai đứa mình sóng bước dưới triền đê
Con sông quê đôi bờ thiêm thiếp cỏ
Đàn trâu bò rong ruổi nối đuôi về.
Mới sáng nay nghe tin đài báo bão
Hướng gió đi, lại vào thẳng quê nhà
Thời gian này, sợ đang mùa lúa trổ
Nơi đảo chìm mà anh thấy xót xa.
Sọt rau xanh thấm mồ hôi người lính
Bữa cơm chiều còn có cả hoa tươi
Đây nhà giàn, giữa mênh mang biển
Vẫn đọc thơ em, thấy mắt em cười.
BIỂN VÀO ĐÊM
Biển vào đêm mênh mang
lộng gió
Hàng phi lao vi vút
điệu ru tình
Sóng nhớ ai mà dạt dào không ngủ
Bờ cát lặng im chờ nước thủy triều
dâng.
Con dã tràng vẫn nhọc
nhằn xe cát
Dẫu biển xóa đi vẫn giữ được thân
mình
Ngoài khơi xa lấp lóa
đèn câu mực
Đêm kiên trì chờ đợi cá cắn câu.
Nơi Trường Sa giờ này
anh có ngủ?
Hay vẫn giữ trời, canh
biển trong đêm
Em nhớ anh như thuyền khát biển
Sóng đừng làm đau cát mịn xô bờ.
Em vẫn chờ anh, em chờ
đông tới
Nhen ngọn lửa hồng sưởi
ấm tình yêu
Đã hai năm rồi anh chưa nghỉ phép
Mong anh về, mẹ cũng nhớ anh nhiều.
Cửa Lò - 6 – 2013
CHIỀU TAM ĐẢO
Mưa chợt đổ xuống đường phố núi
Nắng lại bừng lên chuyển tiết giao mùa
Cầu vồng bắc qua hai đỉnh núi
Mây lang thang như muốn giơn đùa.
Em lại nhớ tới anh nơi biển đảo
nắng gió thừa làm sạm mầu da
Em càng thương anh khi mình đầy đủ
Kỷ niệm ùa về những ký ức ngày qua.
VỀ HẢI PHÒNG
Hải Phòng ơi! Thành phổ hoa phượng đỏ
Bỏ ngỏ câu thơ, nơi cửa ngõ Thủ Đô
Bằng lăng tím không phai mầu chung
thuỷ
Biển Đồ Sơn, vẫn dào dạt sóng xô.
Mùi ngô nướng thoảng thơm nơi phố nhỏ
Thấy đói lòng, lại nhớ bánh đa cua
Những cánh diều như đùa với gió
Nghe xa xa, văng vẳng tiếng chuông
chùa.
Em hẹn đón anh bên đài phun nước
Đưa anh về thăm mẹ thăm cha
Bến Tam Bạc còn vương nhiều kỷ niệm
Anh muốn đi du lịch đảo Cát Bà.
Em đưa anh thăm công viên Hòn Dấu
Cầu Bính đây rồi, gợi lại những ước mơ
Phấn trắng bảng đen, em thích làm cô
giáo
Anh là lính đảo dù xa cách vạn bờ.
Có phải ngày xưa sông này bị lấp
Để bây giờ dài dặc những trang thơ
Cánh phượng hồng, nhẹ rơi trên ghế đá
Tâm sự cùng nhau, nghe sóng biển vỗ
bờ.
Qua Cầu Rào, ta ngắm dòng sông Cấm
Có cấm chi đâu, nước vẫn chảy hiền
hoà
Ngọn hải đăng vẫn đêm đêm thức trọn
Hải Phòng đất lành...Đẹp lắm phải
không em?
PHÚT CHIA XA
Trong cái rét nàng Bân còn sót lại
Mẹ cùng em và bè bạn tiễn anh đi
Trí làm trai như người mắc nợ
Nắng bừng lên ấm áp tươi hồng.
Em rụt rè đứng sau lưng mẹ
Trong ngập tràn sắc đỏ cờ hoa
Chiếc khăn thơm hương đồng gió nội
Dúi vào tay anh trước lúc chia xa.
Em thẹn thùng cứ đi đi em đợi
Mẹ và em rơm rớm hoen mi
Còn nhắc khẽ nhớ viết thư về anh nhé
Đoàn quân đi rực rỡ bóng quân kỳ.
Phía sau lưng biết bao bàn tay vãy
Rưng rức ngậm ngùi phải xa mẹ xa em
Cứ tin anh một ngày không xa nữa
Nhiệm vụ hoàn thành, ta sẽ cưới nhau.
Phần 2
Những lời bình
“CHỢ
LÀNG” - NƠI MIỀN QUÊ YÊN Ả
CHỢ LÀNG
Về thăm quê, ra chợ làng
Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?
Dăm người bán, vài người mua
Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng
Nhìn mớ rau bó vội vàng
Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ
quê
Người bán hàng vội muốn về
Người mua cũng thế - bộn bề như nhau
Không nói thách, chỉ một câu
Người mua người bán gặp nhau hài lòng
Bán mua xong vội
ra đồng
Chợ làng phơi cái long đong phận người …
Ngày17/1/2015
Đỗ Đức Năm
Lời bình của Nghiêm Thản
Tôi không dám nói đến cả hành tinh này, mà chỉ nói đến đất nước
Việt
“Về thăm
quê, ra chợ làng
Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?”
Không phải anh ngỡ ngàng trước sự tần tảo
sớm khuya của bà con lối xóm, chúng ta thừa hiểu rằng ông cha ta vẫn chịu
thương chịu khó là vậy. Từ “Lạ chưa”
một câu hỏi tu từ được đặt vào cuối câu 8, chúng ta đừng vội cho rằng tác gỉả
là người quan liêu không hiểu gì về những miền quê, mà đây lại chính là cái đòn
bẩy để ta hiểu thêm về con người quê vẫn chân chất là vậy. Ai chẳng biết rằng
đời sống bây giờ trên mọi miền đã khá hơn nhiều, thế mà nơi chợ quê “tinh mơ đã thấy bán hàng”, không phải vì
nghèo túng mà phải đến nỗi tần tảo thức khuya dạy sớm như xưa. Với nghệ thuật
viết của Đỗ đức Năm, những câu 6 được cắt nhịp 3 – 3, câu 8
được cắt nhịp 4 – 4 đã cho ta thấy không khí chợ từ dăm ba người rồi đông dần,
đông dần:
“Dăm
người bán, vài người mua
Mớ rau món tép, chào thưa dịu
dàng”.
Người quê thân thương là vậy chỉ “mớ rau món tép” thôi, mà “chào thưa dịu dàng”. Thật trân trọng và
đáng quý. Câu thơ anh viết nhẹ nhàng chân thật, giọng thơ chân chất quê mùa như
người quê vậy, mà chuyển tải được một vùng quê thanh bình yên ả, con người quê
tình cảm thật thà chất phác, khiến độc giả quên đi cái chật chội bon chen nơi
đô thị, như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:
“Người
quê mưa nắng giãi giề
Mớ tôm mớ tép
đi về có nhau”.
Còn Nguyễn Trọng Tạo, với góc nhìn của anh,
thấy cả những sản vật ngoài đồng và những người làm ra nó:
“Chợ quê gom cả hương đồng
Chè xanh rượu
bắp, khoai trồng đất pha
Mớ rau
nải chuối quả cà
Con cua ngoài
ruộng, bông hoa trong vườn”
Từ con người quê đến sản vật quê đều mang
cái sắc thái của người Việt. Qua cái nhìn của nhả thơ Hà Cừ ta thấy: “chợ quê con tép cũng gầy / Con cua, con cá
dính đầy bùn tươi / Mớ rau muống, mớ mồng tơi / Quả bầu, quả bí nói lời gió
sương”.Với lăng kính của Đỗ Đức Năm anh cũng cho độc giả thấy:
“Nhìn mớ rau bó vội vàng
Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ
quê”
Câu thơ dản dị như
người nông dân, như những câu nói đời thường, mà lại rất thơ, bởi tự nó lung
linh tỏa sáng, nó chuyển tải được cái lam lũ vất vả, giản dị của người quê, chỉ
qua những cụm từ “vội vàng”, “ Không cần
gọn đẹp” ta cũng đã nhận ra điều đó. Thơ của Đỗ Đức năm còn nói nên được tính cách và phẩm chất của người
quê:
“Người bán hàng vội muốn về
Người mua cũng thế - bộn bề như
nhau
Không nói thách, chỉ một câu
Người mua người bán gặp nhau hài
lòng
Bán
mua xong vội ra đồng”
Người quê là vậy, công việc nhà nông
là thế. Lúc nào họ cũng vội vội, vàng vàng, tranh thủ làm, tranh thủ ăn, mua
mua, bán bán, con con, cháu cháu, rồi con lợn con gà… Tất bật, tất tưởi. Nhưng
rất thật thà, không bon chen không đố kị, không hẹp hòi chật chội. Nhà thơ
Nguyễn Siêu Phàm cũng đã cho ta thấy được cái đức tính tốt đẹp ấy: “Bán thì vội bán, mua thì vội mua / Thói quê
tất tả bốn mùa / gánh rau bán đứng / Trái dưa bán ngồi” Người quê suốt ngày
họ quanh quất với ruộng đồng, mớ rau bó cỏ, con gà con vịt… công việc lúc nào
cũng bộn bề bận rộn “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. chỉ
một câu kết thôi Đỗ Đức Năm cũng đã nói hộ người nông dân được điều đó: “Chợ làng phơi
cái long đong phận người …” Phận người
quê là vậy . Ở đây ta bắt gặp từ “Phơi”,
phơi có nghĩa là bầy ra, phô ra trình bày cho mọi người biết. Trớ trêu thay lại
là phơi cái “long đong” của con
người. Đọc lướt qua ta chỉ nghĩ tác giả diễn tả cái vất vả của người nông dân,
bởi câu thơ rất gần gũi với mọi người. Nhưng đây lại là một câu triết lý, chúng
ta đã từng đi đến mọi miền đất nước, đến một nơi nào đó nếu chỉ vô tình thôi
không đi tới chợ, thì chúng ta sẽ bị mơ hồ về nơi đó. Chính chợ là nơi “phơi” bầy những gì địa phương ấy đang có
từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến nếp sống, đạo đức con người. Vậy thì câu thơ
của Đỗ Đức Năm ở đây lại rất thơ.
Với 84 từ tác giả đã chắp ghép thành 12
câu lục bát ngọt ngào đằm thắm thiết tha, ngôn ngữ trong thơ không xa lạ, rất
đời thường không hoa mỹ, rất gần gũi với mọi người, bài thơ không dài, bố cục
chặt chẽ, anh đã biết nén câu nén chữ để chuyển tải được cái chân chất của
người quê, dễ nghe dễ thuộc nhưng lại rất thơ. Tôi nghĩ đây là cái khó của
người cầm bút. Chúc anh viết được nhiều bài hay hơn nữa.
Ngày 05 / 5 /
2015
Nghiêm Thản
NỖI LÒNG NGƯỜI XA XỨ LÀ NHỮNG TÌNH CẢM SÂU ĐẬM
CỦA KHÔNG VĂN ĐƯƠNG QUA THI PHẨM “NHỚ LÂM THAO”
NHỚ LÂM THAO
Mình về có nhớ
Lâm Thao
Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng
Phù sa đỏ nước
sông Hồng
Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ Tiên
Ai lên đỉnh núi
thì lên
Mải mê hoài niệm lại quên đường về
Cỏ non xanh tít
chân đê
Lững lờ mây tím đồng quê xanh rì
Trời xanh in bóng
Ba Vì
Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô
Êm đềm nước biếc
sông Lô
Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương
Trập trùng rừng
cọ đồi nương
Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng
Nơi này chín nhớ
mười mong
Mái trường ngói đỏ nhuộm hồng chân mây
Bao năm nhớ bạn,
nhớ thày
Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu
Mơ mơ một dáng yêu
kiều
Mang mang giọng nói một chiều sương giăng…
“Chàng đi có nhớ
em chăng”
“Miền quê em ngóng mảnh trăng cuối trời”
Ôi sao lời vọng
một đời
Dù đi ngàn dặm xa vời còn thương
Tình người như
sợi tơ vương
Trăm năm vẫn gắng tìm đường gửi trao…
Mình đi có nhớ
Lâm Thao
Ta đi ta nhớ cồn cào trong tim …
Khổng Văn Đương
Lời bình
của Nghiêm Thản
Cái trân trong đáng quý của người Việt Nam
chúng ta là dù đi đâu về đâu, dù quê mình nghèo đến mấy, cũng vẫn nhớ về quê
hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có mồ mả tổ tiên ông bà ông vải, nơi có lời
ru của mẹ, có đòn roi của cha dạy dỗ mình nên người, nơi có tiếng sáo diều bay
bổng tít tầng không, có ruộng đồng ấp iu ngô khoai bắp… Ăm ắp những kỷ niệm
tuổi ấu thơ và những người thân yêu nhất. Với 28 câu lục bát nhà thơ Khổng Văn
Đương đã giãi bày những tâm sự của mình, một người con xa xứ luôn da diết nhớ
quê hương. Chỉ 2 câu đầu anh đã trải được lòng mình:
“Mình về có nhớ Lâm Thao
Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng”.
Câu thơ đậm sắc màu ca dao, có lẽ cái tố
chất ca dao, cái tình quê mặn mà đã ngấm vào máu thịt anh. Cụm từ “mình”
với “ta” đã chứng minh được điều này.
Anh nhớ Lâm Thao quê anh đến “nôn nao
trong lòng”. “Mình” với “ta” không hẳn là tình yêu đôi lứa mà còn
là những người cùng cảnh ngộ khi phải bươn chải kiếm ăn nơi xứ người. Người
Việt
“Phù sa đỏ nước sông Hồng
Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ
Tiên”
“Trời xanh in bóng Ba Vì
Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô
Êm đềm nước biếc sông Lô
Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương”.
Nhà thơ Giang
“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê
hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai
bảo chăn trâu là khổ? "
Tôi mơ
màng nghe chim hót trên cao”
(Quê
hương - Giang
Những địa danh ấy, dấu chân anh đã in đậm
thời ấu thơ, đã khắc ghi vào tâm trí anh, song hành cùng anh trên mọi nẻo đường
Tổ Quốc:
“Trập trùng rừng cọ đồi nương
Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng
Nơi này chín nhớ mười mong
Mái trường ngói
đỏ nhuộm hồng chân mây”.
Ấn tượng sâu đậm nhất ta gặp là những dòng thơ mà Khổng Văn Đương viết về quê hương như mạch nguồn dân tộc. Dường như
anh gửi vào đó cả một vốn kiến thức dân gian và khát khao cái khí quyển dân
gian nghìn đời ấy. Những khổ thơ trên
tràn ngập một thế giới cổ tích ca dao. Thơ anh còn
phảng phất màu sắc của Nguyễn Bính khi ta nhớ tới câu:
“Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang...
Có cô Tấm náu mình trong quả thị
Có người em may túi đúng ba gang”
(Quê Hương - Nguyễn
Bính)
Hình như trong mỗi câu thơ đều chất chứa
một thứ điển tích nào đó trên đất Lâm Thao quê anh để anh nhớ đến vậy. Cái tình người là vậy “Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng”. Đây
là tâm trạng riêng anh, nhưng anh đã nói hộ nỗi lòng của những người xa quê.
Anh đã biến cái “tôi” thành cái “ta” chung của mọi người. Câu thơ đã hay
còn đẹp, bởi anh đã biết tận hưởng cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Anh
vấn vương với những kỷ niệm vơi đầy, tình thày tình bạn:
“Bao năm nhớ bạn, nhớ thày
Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu
Mơ mơ một dáng yêu kiều
Mang mang giọng nói một chiều sương
giăng”
Tình thày tình bạn là vậy sao anh không
khỏi vấn vương, mà còn vấn vương nhiều nữa chứ, bởi anh còn vương cả “tơ lòng” kia mà, anh “Mơ mơ một dáng yêu kiều” để rồi nghe “Mang mang giọng nói một chiều sương giăng”
của tình yêu tuổi học trò. Cho nên :
Ôi sao lời vọng một đời
“Dù đi ngàn dặm xa vời
còn thương
Tình người như sợi tơ vương
Trăm năm vẫn gắng tìm
đường gửi trao…
Mình đi có nhớ Lâm Thao
Ta đi ta nhớ cồn cào
trong tim”.
Những dòng thơ cuối của bài thơ lại mang
màu sắc lãng mạn của tình yêu tuổi học trò đã đẩy tính trữ tình lên cao trào,
đó cũng là nghệ thuật của người cầm bút. Với 28 câu lục bát mượt mà đằm thắm,
thiết tha, bài thơ hơi dài nhưng vẫn cuốn hút được người đọc không gây nhàm
chán đó là thành công của tác giả. Xin chúc Khổng Văn Đương dồi dào cảm xúc để có nhiều tác phẩm trữ tình hay hơn nữa
Nghiêm Thản
TÂM TƯ CỦA MỘT NGHỆ SĨ
Qua thi phẩm gửi Gửi
trời của Việt Hồng
GỬI TRỜI
Bao năm gảy những tiếng đàn
Lặng im
như chỉ trăng ngàn vờ nghe
Người ơi! Khuất núi có về
Lắng nghe
từng giọt, lời thề bấy nay
Vuốt mòn sợi bạc trong tay
Ngọt bùi
nào biết đắng cay hỡi người
Cô đơn lại nở nụ cười
Giọt ta
lẫn tiếng đàn rơi ướt mình
Giờ đau thế thái nhân tình
Rầy sang
em nỗi bất bình ngày xưa
Anh ngồi hòa những buồn mơ
Ra sông
nhờ cánh cò đưa gửi trời.
Việt Hồng
Lời bình
của Nghiêm Thản
Cuộc đời của mỗi con người, ai cũng có lúc
buồn lúc vui lẫn lộn, lúc thăng lúc trầm, lúc say lúc tỉnh… Nếu là thi sĩ họ gửi cả vào thơ, là họa sĩ họ
sẽ vẽ lên những bức tranh huyền diệu, là nghệ sĩ họ gửi cả tâm tư tình cảm của
mình vào những phím đàn để sợi tơ đồng rung lên tiếng khoan tiếng nhặt. Thi phẩm
“Gửi Trời” của Việt Hồng cũng vậy,
qua ông kính của người thơ anh đã ghi lại những tình cảm của người nghệ sĩ họ
rất yêu những niềm vui, cái đẹp quanh mình, nhưng họ vẫn có những nỗi buồn,
những nỗi buồn ấy không muốn nói ra mà:
“Bao năm gảy những tiếng đàn
Lặng im như chỉ trăng ngàn vờ nghe”.
Chắc hẳn người nghệ sĩ buồn nhiều lắm, hay
họ có cái gì uất ức chăng, họ lặng im, có lẽ chỉ trăng mới hiểu được tiếng tơ
lòng của mình mà cũng lặng im, còn như“vờ
nghe”, vậy thì biết chia sẻ cùng ai. Từ “vờ nghe” cho độc giả thấy được không gian thật tĩnh lặng, vậy ai
hiểu được lòng mình đây, nghe thấy rồi mà như chưa biết. Câu thơ biểu cảm sự
dằn vặt tâm can. Ở đây ta bắt gặp hình ảnh “trăng
ngàn”, trăng ngàn là trăng cuối tuần hạ huyền khi sắp lặn, ánh sáng mờ mờ,
huyền ảo buồn buồn, rất ăn nhập với ý thơ. Như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Đây cũng là cách dùng ngôn ngữ và hình
ảnh trong thơ để so sánh có sự lựa chọn vừa chính xác lại vừa làm đẹp câu thơ.
Thế mới biết tình cảm của người nghệ sĩ sâu nặng biết nhường nào, cả khi người
thân, và những thính giả từng nghe và hiểu tiếng đàn của mình đã khuất bóng.
Người nghệ sĩ muốn gửi tâm tư tình cảm của mình qua tiếng đàn vút lên vũ trụ
bao la, để thế giới bên kia nghe được, để cùng chia sẻ với lòng mình:
“Người ơi!
Khuất núi có về
Lắng nghe từng giọt, lời thề bấy nay”
Lời
thề ở đây không riêng gì như lời thề sắt son của tình đôi lứa mà nó còn chứa
chất một sự hứa hẹn với nhau điều gì, dường như chưa thực hiện được, hay có cái
gì đó thiếu tôn trọng nhau, coi thường nhau. Cho nên tiếng đàn mới khắc khoải “từng giọt” buồn, vẫn u uất trong lòng.
Những người nghe và hiểu được tiếng đàn cùa người nghệ sĩ thì đã khuất, anh
biết chia sẻ cùng ai, nhưng người nghệ sĩ vẫn chơi đàn anh chơi đến nỗi:
“Vuốt mòn sợi
bạc trong tay
Ngọt bùi nào biết đắng cay hỡi người”
Nghe
câu “vuốt mòn sợi bạc trong tay” Mới
nghe ai cũng nghĩ người nghệ sĩ tuổi đã cao, anh vuốt những sợi tóc trên đầu
mình mỗi khi buồn tủi, hoặc nghĩ đến nhân tình thế thái, Ở đây Việt Hồng anh đã
miêu tả người nghệ sĩ chơi đàn như vuốt sợ tơ đồng đến mòn trong tay mình để
chia sẻ buồn vui với mọi người. Đấy là chưa dám so sánh với nàng Kiều: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Ý
thơ sâu sắc trìu tượng, đa chiều, đa dạng. Nếu ta chỉ dừng lại ý ban đầu vẫn
không sai. Đó chính là nghệ thuật bút pháp của Việt Hồng. Ca dao thường nói: “ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay…”, Nhưng ở đây
Việt Hồng lại viết: “ Ngọt bùi nào biết
đắng cay” ý thơ ngược lại hoàn toàn. Có phải chăng trên đời này còn nhiều
bất công, có những kẻ chỉ biết hưởng thụ, ăn quả mà chẳng nhớ người trồng cây,
chẳng biết có bao người khổ sở gian nan, thậm chỉ phải gửi xương gửi thịt, phải
hy sinh, đổ máu mới có được ngày hôm nay, họ chỉ biết nhận đâu biết cho ai cái
gì. Câu thơ như chì, như nghiến. Như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:
“Nghĩ
cuộc đời nhận cho, cho nhận
Mình đã
nhận gì, những gì mình cho
Cho và nhận
có cái gì sòng phẳng
Có kẻ nhận
nhiều mà chẳng thấy cho”
Việt Hồng anh biểu cảm những câu thơ tưởng
như vô lý nhưng lại là có lý:
“Cô đơn lại nở
nụ cười
Giọt ta lẫn tiếng đàn rơi ướt mình”
Khi
con người ta đã cô đơn thì mấy ai nở được nụ cười, mà thường lặng im như những
người trầm cảm. Nhưng ở đây Việt Hồng lại viết: “Cô đơn lại nở nụ cười”, phải chăng đây là tiếng cười chua chát
trước thế thái nhân tình của cuộc đời, có cái gì đó thiếu sòng phẳng chăng.
Sách cổ cũng có câu: “Khấp như thiếu nữ
vu quy nhật / Tiếu tựa thư sinh lạc đệ thi” (Khóc như thiếu nữ về nhà chồng /
cười như thày khóa hỏng thi). Như Trần Tế Xương cũng đã cười:
“Trên
ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng”.
Vậy thì câu thơ lại hoàn toàn có lý, để
những giọt lệ buồn hòa lẫn vào “tiếng đàn
rơi ướt mình”. Với ngòi bút của Việt Hồng người nghệ sĩ không những đã cất
lên tiếng cười chua chát, còn khóc, anh khóc thầm qua những tiếng đàn, và thấy:
“Giờ đau thế
thái nhân tình
Rầy sang em nỗi bất bình ngày xưa”
Chắc
hẳn “nỗi đau thế thái nhân tình” này
đau lắm, nó đau đến tận xương tận tủy, nó như
mũi dao chích vào con tim, hằn vào da thịt để muôn đời muôn kiếp không
quên, làm cho tâm hồn u uất, biết kêu ai, vậy chỉ còn có cách kêu trời, giống
như những người dân tộc vùng sơn cước gửi những nỗi bất bình của mình vào những
cây lêu vẽ hình con chim ngày tết, để sang một năm mới may ra các đấng thần
linh còn giải cứu cho sự công bằng. Việt Hồng anh đã khắc họa nỗi đau của một
con người, một nghệ sĩ, có lẽ nỗi đau này còn rầy sang cả người thân yêu nhất
của mình Vậy chỉ còn có cách gửi lên trời những tiếng đàn, là những thông điệp,
nó chứa chất những tâm tư tình cảm của mình những nỗi buồn vui:
“Anh ngồi hòa
những buồn mơ
Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời”.
Đâu
phải riêng người Việt
Với
12 câu lục bát đôi chỗ còn phải dùng vần thông để giữ ý thơ, tự sự mà không kể
nể. Nhưng vẫn giữ được giai điệu ngọt ngào da diết. Việt Hồng, anh đã cho ta
thấy những nỗi đau của con người, như những thông điệp bất công của nhân tình
thế thái, có những con người gần như bất lực tê liệt, chỉ biết ôm những u ất và
lặng im xem con tạo xoay vần.
Nghiêm Thản
TA HÃY XEM
NỮ SĨ MINH HIỀN NGHĨ GÌ VỀ NGƯỜI CON
GÁI KHI ĐI LẤY CHỒNG QUA THI PHẨM “SANG NGANG”
SANG NGANG
Thế là xấp ngửa sang ngang
Thế là lã chã mưa sang nhà người
Cau non bổ bốn ra rồi
Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm.
Đài trang chín nụ tầm xuân
Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao
Lạnh không, phận liễu má đào
Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ.
Trăm sông vẫn cứ đôi bờ
Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng khơi
Vớt câu thơ bạc đem phơi
Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều.
Minh Hiền
Lời Bình của Nghiêm Thản
Là người con gái hầu như ai cũng phải đi lấy chồng,
nhưng trớ trêu thay mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Có một điều ta thường gặp
“khóc như thiếu nữ lúc vu quy”, đó
chính là tình cảm của người phụ nữ Việt
“Thế là sấp ngửa sang ngang
Thế là lã chã mưa sang nhà người”.
Số phận người con gái lênh đênh như con thuyền giữa dòng sông với 12 bến
nước, biết bến nào đục bến nào trong. Chọn ư? Khó lắm! không được! Bởi số phận
đã an bài:
“chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng
vàng từ nay”.
(Sang ngang -
Nguyễn Bính)
Người con gái khi “sang ngang” của Minh Hiền lại như một sự ép buộc, khổ sở không
thuận lòng bởi làm sao mà phải “sấp ngửa
sang ngang”, làm sao mà phải khóc đến“lã
chã”. Nhưng cũng không hẳn là như vậy, còn nhiều lý do khác chưa lý giải
được. Đây là câu thơ hay bắt người đọc phải dừng lại mà nghĩ ngẫm, như nhà thơ
Lê Nghiêm cũng đã viết:
“Em là con gái nhà lành
Cha mẹ mất cả, cũng đành vậy thôi!”
Đây lại là lý do cụ thể, nhưng với thơ
Minh Hiền có sự cuốn hút như bắt độc giả phải bám vào câu thơ để lí giải được ý
thơ, mặc dù người con gái khóc “lã chã”
như “mưa sang nhà người”. Ở đây ta
bắt gặp điệp từ “thế là” chứng tỏ rằng chữ “đành”
của người con gái lúc về nhà chồng, ta ngầm hiểu còn có bao nhiêu cái “đành” nữa, mà người con gái phải gánh chịu. Câu thơ mang đầy tính nhân văn,
Minh Hiền xót xa và thông cảm cho những số phận người con gái phải lấy người
không yêu là vậy. Đọc đến hai câu tiếp
theo:
“Cau non bổ bốn ra rồi
Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm”.
Bây giờ ta mới vỡ ra rằng người con gái khi đi lấy chồng trong thơ Minh
Hiền cũng rất có giá đấy chứ, đâu phải có những người chỉ vài chai rượu nút lá
chuối là xong, đâu phải như mớ rau mớ cỏ, cũng “cau non bổ bốn ra rồi” cũng “Trầu
xanh vôi trắng” cũng có lời thưa gửi trịnh trọng và “gói lời lên mâm” đàng hoàng lắm chứ. Chứng tỏ “Tay bâng trầu đầu đội lễ” hẳn hoi có kém
ai đâu. Chỉ hai câu thơ ta thấy được người con gái “sang ngang” của tác giả có ăn, có hỏi đàng hoàng, câu thơ đã lý
giải cho từ “sấp ngửa” không phải là
vội vàng mà là sự đau khổ. Đau khổ đến tột cùng thôi đành phó thác cuộc đời cho
số phận. Vậy nên ta càng thấy cái hay của điệp từ “thế là”. Trong ca dao chúng ta thấy“yêu nhau cau bốn bổ ba / ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Đấy là
nói đến tình cảm đôi lứa. nhưng trong thực tế cau to cau nhỏ, các cụ ta thường
bổ “bốn” để mang ý nghĩa 4 họ đã
chứng kiến đôi uyên ương đã nên vợ nên chồng. Nhưng từ “vôi trắng” và “gói lời”
thì rất hay. Đã đành vôi thì phải trắng, nhưng từ “vôi trắng” ở đây ta cảm thấy cuộc tình này có cái gì bạc bẽo. người
ta vẫn nói: “Bạc trắng như vôi trát tường”. Ngạn ngữ
có câu:“Học ăn, học nói, học gói, học mở”
thế thì câu “gói lời lên mâm” lại trở
lên tuyệt vời đến long lanh của câu chữ, nó nêu lên được sự giao tiếp rất lịch
sự và trịnh trọng, gia giáo lễ phép, đúng thuần phong , mỹ tục của người Việt.
Vậy thì từ “gói lời” rất thơ, câu thơ
ảo mà dễ hiểu.
Người ta chưa nhìn thấy bóng vía hiện hữu
nhưng ai cũng có thể cảm nhận được sự có mặt của nó bằng trực giác. Theo các
nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, bóng vía là một khái niệm trong dân gian, vẫn hiện
hữu trong đời sống hằng ngày. Người đời vẫn quan niệm đàn ông có 7 vía đàn bà
có 9 vía. Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền muốn giới thiệu cho độc giả về
nhân vật là người con gái một cách rất khéo trong thơ của mình rất đài trang
khuê các:
“Đài trang chín nụ tầm xuân
Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao”
Minh Hiền có lối viết khác người không “đánh bóng mạ kền” câu chữ, mà ngôn từ vẫn lung linh tỏa sáng. Chỉ
cần mượn hình ảnh “chín nụ tầm xuân”
độc giả cũng biết ngay đây là người con gái rất tươi trẻ, “chín nụ tầm xuân” cũng như 9 vía của người con gái, “ Cụm từ “nụ tầm xuân” ta hiểu ngay đó là một
thiếu nữ, còn làm cho câu thơ lấp lánh đẹp lên. Ca dao cũng đã ca ngợi người
con gái đẹp như “nụ tầm xuân nở ra xanh
biếc” lại còn đứng sau từ “đài trang”
thì chứng tỏ đây là một thiếu nữ hào hoa phong nhã, trong trắng trinh nguyên,
đáng giá “nghìn vàng” được “gìn giữ” đến “trong ngần”, được nuôi dạy trong một gia đình gia giáo nề nếp, và
bây giờ đã đến lúc trao thân gửi phận, rẽ sang một cuộc sống mới hoàn toàn khác
lạ. Đọc đến đây tôi thầm nghĩ rằng: “Em
như cây bấng lên khỏi đất / sẽ quen dần đất lạ quê anh”, và hy vọng rằng: “Vợ tôi cũng giống như tôi / lấy nhau thì
lấy xong rồi mới yêu” (Vợ tôi – Lê Nghiêm). Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền viết đã hay còn đẹp đến
long lanh của ngôn từ, mang đầy màu sắc dáng dấp của Truyện Kiều, phải chăng
Minh Hiền đã chắt lọc được tinh hoa của Nguyễn Du, để cái chất lục bát sáng giá
hơn:“Quá thương chút nghĩa đèo bòng /
Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?”. (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Tôi dám nói rằng đây là một trong những câu thơ đạt đến mức
tài hoa. Thơ của Minh Hiền là vậy, chị còn dùng cách đòn bẩy như một sự kích
hoạt của câu chữ, đưa người thiếu nữ lên mức đài trang khuê các để rồi độc giả
phải ngậm ngùi cho câu sau:
“Lạnh không, phận liễu má đào
Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ”.
Rõ ràng người thiếu nữ kia đã đành
phải chấp nhận cái “Lạnh không, phận liễu
má đào” của mình mà còn lo lắng cho số phận của mình “thế là” lại tiếp những “thế
là”… Không biết những chuyện gì sẽ sảy ra. Về nhà chồng mà như “vào hang nhện”, lại còn bao nhiêu lo
lắng. đi lấy chồng mà như bị xa lưới “biết
thế nào lưới tơ” Ở đây tính tư tưởng giáo dục rất rõ nét. Khoan hãy nói đến
từ “bình đẳng”. Nếu là giới mày râu
đọc câu thơ này phải biết thương phụ nữ nhiều hơn, yêu thương vợ mình hơn, biết
ơn phụ nữ nhiều hơn… Bởi chính chị em đã mang lại hạnh phúc cho gia đình cho
toàn nhân loại.
Bốn câu kết rất logic với bài thơ từ câu
đầu “Thế là sấp ngửa sang ngang” cho
đến câu: “Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng
khơi” và “Vớt câu thơ bạc đem phơi /
Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều” Rất ăn nhập với nhau. Minh Hiền đã
cho ta thấy một bi kịch của một người con gái đã đến tuổi xế chiều rồi mà vẫn
khao khát một cuộc sống tươi đẹp, đầm ấm yêu thương, mặn mà, vẫn nuối tiếc cuộc
đời. Nhưng cái đẹp đó như những câu “thơ”
đẹp đấy nhưng rất “bạc” rất phũ phàng. Từ “bạc” ở đây lại rất khớp với từ “vôi trắng” ở trên, dù có níu lại “vớt” lên đem “phơi”cũng chỉ như ngọn gió “cong”
“vênh”. Minh Hiền có cách viết rất ảo, rất trìu tượng nhưng dễ hiểu, láy
lại ý mà không lập lại câu chữ. Xét về nghẹ thuật, thơ thì ai vớt được, nhưng
lại vớt được, nhặt được, gió thì nhìn làm sao được mà bảo rằng gió cong vênh. Nhưng
ta lại thấy cuộc đời nhiều lúc cong vênh, và khúc khỷu gập ghềnh, gai góc như
cuộc đời nàng Kiều vậy. Ở đây tôi muốn nói những chiều thơ dễ hiểu không cần
phải ý tại ngôn ngoại, mà lắng đọng, gây cảm xúc, đụng chạm đến tình cảm riêng
tư của người đọc mới là bậc nhất của thơ. Còn viết một cái hiều cái khác vẫn
chỉ là hay bậc thứ hai của thơ.
Chỉ ngắn gọn trong 12 câu lục bát đằm
thắm mượt mà, tài hoa Minh Hiền đã tái hiện lại một bi kịch của một số phận
người con gái như hạt mưa sa. Cũng là đề tài “Sang ngang” nhưng lại rất riêng. Bố cục chặt chẽ, bốn câu đầu giới
thiệu một cô gái khi đi lấy chồng, bốn câu tiếp theo nói về thân thế, thân phận
người con gái ấy, và cuộc sống mới của mình khi rẽ “sang ngang”, bốn câu kết cho ta thấy đây là một bi kịch, và sự
khát khao của người con gái đòi được yêu. Thơ Minh Hiền giầu hình ảnh, ngắn
gọn, xúc tích, không dàn trải, đầy tính nhân văn, đã hay còn đẹp, từng câu chữ
lắng đọng trong người đọc, như muốn thuộc lòng để rồi chiêm nghiêm, suy ngẫm
đến mình, đến người, đến nhân tình thế thái. Đó là cách nhìn rất riêng của Minh
Hiền.
Nghiêm Thản
MỘT MẪU NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
QUA BÀI THƠ “MỘT MÌNH ANH”
CỦA MINH HIỀN
MỘT MÌNH ANH
Em nằm viện
Anh ở nhà một mình thật khó
Chắc chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ
Và tiếng mọt giường kèn kẹt cầm canh.
Anh có nghe tiếng em thở rất nhanh.
Một mình em đối diện đen trong tối
Bước chân ai như bác sĩ rất vội
Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê.
Từng giọt truyền nhảy múa trong mê
Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt
Tỉnh ra mới thấy quanh mình đông chặt
Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây.
Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây
Em không tin bệnh tình đến vậy
Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy
Và anh sẽ thiệt thời khi em nằm viện lâu.
Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu
Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt
Tự nhắc mình hãy rộng lòng, đừng khe khắt
Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.
Minh Hiền
Lời bình của Nghiêm Thản
Trong cuộc sống của mỗi gia đình,
“mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”. Với ống kính của Minh Hiền chị đã tái hiện lại văn cảnh của một gia đình không nấy
gì hạnh phúc lắm, bằng những vần thơ buồn man mác. Nhưng chị lại cho độc giả
thấy một mẫu người Việt sẵn có từ xa xưa, đó là “ Công dung ngôn hạnh”. Một người phụ nữ, một người vợ, luôn nhận lấy
phần thiệt về mình, mà vẫn lo lắng cho chồng con đầy đủ:
“Em nằm viện
Anh ở nhà thật khó”
Câu thơ giản dị như câu nói cửa miệng mà khiến độc giả phải dừng lại suy
ngẫm và nẩy tính tò mò. Bởi có người phụ nữ nào đáng thương và đáng trân trọng
như thế không? Đã ốm đã đau chưa biết bệnh tình ra sao, nhưng cái lo đầu tiên
khi nằm viện vẫn là cho chồng, ai là người cơm nước giặt giũ cho chồng đây. Chỉ
hai câu mở đầu Minh Hiền cũng đã cho ta thấy một người phụ nữ rất mực đảm đang,
tần tảo vì chồng vì con, gánh vác tất cả công việc nội trợ trong gia đình… Một
người phụ nữ rất Việt Nam, như câu ca dao đã đi vào lòng người:
“Chồng em, em quí
em thương
Chồng người áo gấm xông
hương, mặc người”.
Cho dù người chồng ở bất cứ cương vị nào, hoặc là quan chức, hoặc là
những kẻ ăn không ngồi dồi, sống lối sống gia trưởng, khinh rẻ vợ con, coi vợ
chỉ là vợ, thậm chí vợ chỉ là nợ… Sống vô tâm, vô cảm. Kể cả những khi vượt
cạn, cho đến lúc ốm đau phải nằm viện không ai chăm sóc:
“Chắc
chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ
Và tiếng mọt giường kèn
kẹt cầm canh”.
Để bảo vệ hạnh phúc của gia đình, người phụ nữ trong thơ Minh Hiền đâu
có dám đòi hỏi sự bình đẳng, mặc dù họ biết chắc rằng người chồng vô tâm bạc
bẽo kia vẫn ăn no ngủ kĩ có biết đâu người vợ của mình với sức khỏe tàn tệ, “giẹo giọ” đang chống đỡ với bệnh tật. Ở
đây ta bắt gặp cụm từ “Đêm thu giẹo giọ”,
nghe lạnh lẽo quá, mà tại sao Minh Hiền không dùng “đêm đông” cho thêm phần giá lạnh. Các thi sĩ thường hay dùng các
mùa để nói đến tuổi tác con người. Nói mùa xuân là nói đến sức sống căng tràn
của tuổi trẻ, “tuổi xuân ta đi lên phơi
phới”… Vậy thì từ “đêm thu” chứng
tỏ tác giả đang muốn nói đến tuổi của người vợ kia đã xế chiều, mà lại “giẹo giọ” nữa thì thật quá tồi tệ, liệu
có chống đỡ được bệnh tật hay chăng. Trong cái giấc ngủ ngon lành kia, người
chồng vô tâm ấy liệu có nghe thấy tiếng rên đau đớn của người vợ hay không, có
biết huyết mạch đang tăng dần đến mức nguy kịch hay không, hay chỉ nghe thấy
tiếng mọt giường kêu “kèn kẹt” như
nghiến vào từng thớ thịt người bệnh. Ngôn ngữ trong thơ Minh Hiền như cởi gan cởi ruột, ta nghe
những tiếng côn trùng trong đêm đã thấy não ruột não gan rồi, mà ở đây lại là
tiếng mọt kêu “kèn kẹt”, giống tiếng
dao cạo tinh tre tinh nứa , nghe đến kển hết cả da thịt. Giọng thơ của chị buồn
buồn mà như đay như nghiến, như trì như trích. Chỉ 2 câu thơ cuối trong khổ đầu
cũng đã cho độc giả thấy nhân cách của một mẫu người chồng khó chấp nhận. Để
đẩy tính kịch lên đến cao trào, Mình Hiền cho ta thấy cụ thể hơn:
“Anh có nghe tiếng em thở rất
nhanh.
Một mình em đối diện đen trong tối
Bước chân ai như bác sĩ rất vội
Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê”.
Đến đây mạch thơ của chị lại chuyển sang lối viết tự sự, không kể lể mà
ta vẫn thấy được tâm trạng của người phụ nữ, người vợ đang hoang mang, lo lắng,
thất vọng, tưởng mạch máu của mình “sẽ
rạn vỡ”.Chỉ một câu trong khổ thơ thứ 2 “Một mình em đối diện đen trong tối” độc giả cũng đã thấy được điều
đó. Minh Hiền có lối viết láy ý chứ không láy từ: “đối diện đen trong tối” để đẩy nội dung lên đến cao trào hơn. Ta
vẫn thừa biết đen đồng nghĩa với tối. Nhưng ở đây Minh Hiền lại đưa vấn đề “đối diện đen”, đối diện với cái chết cận
kề, mà lại ở “trong tối”, có sáng sủa
gì đâu, gần như không lối thoát. Thế mới là hay. Cách đặt vấn đề thật tuyệt
vời. Bởi trong hoàn cảnh trớ trêu, một thân một mình, “đơn phương, độc mã” ốm đau không người chăm sóc an ủi, lại phải đối
diện với con bệnh hiểm nghèo thì niềm hy vọng rất mong manh:
“Từng giọt truyền nhảy múa trong mê
Quờ tay lên vớt ánh đèn
đầy mắt
Tỉnh ra mới thấy quanh
mình đông chặt
Thoát hiểm rồi, em vẫn
còn đây.”
Có lẽ nữ sĩ Minh Hiền cũng là phụ nữ nên chị dễ thông cảm, và đồng cảm
với chị em hơn. Trong cơn mê sảng “từng
giọt truyền nhảy múa” như ma trêu quỷ hờn, người phụ nữ vẫn muốn sống, vẫn
“Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt” để
tìm sự sống chăng, nhưng chỉ là thứ ánh sáng lờ mờ “đầy mắt” có nhìn thấy ai đâu. Thơ của chị đầy tính giáo dục, và có
hậu. Người ta thường nói: “Ở hiền gặp
lành”. Kể cả lúc khó vẫn đáng sống hơn, “Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây”. Em vẫn còn sống để anh (chồng)
đỡ vất vả hơn. Câu thơ đầy tự tin và lạc quan, đậm tính nhân hậu. Cũng như
người Phụ nữ Việt
“Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây
Em không in bệnh mình đến như vậy
Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy
Và anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu.”
Đúng là “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” huống chi là tình cảm vợ chồng. “Giận thì giận, mà thương thì vẫn cứ thương”.
“Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu /
Thương nhau đến lúc bạc đầu còn thương”. Thơ của Minh Hiền đầy tính nhân
văn, cái thiệt thòi của người phụ nữ trong thơ Minh Hiền là không có từ “thương nhau”, mà chỉ một mình lo cho
bệnh tật mình, lại càng lo cho chồng, chỉ “Một Mình anh” ai là người chăm sóc,
ai là người “nâng khăn sửa túi” cho
chồng, thiếu bàn tay phụ nữ rồi sẽ ra sao “Và
anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu”. Vẫn mong có chồng bên cạnh, cho dù
người chồng ấy là gì đi chăng nữa:
“Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu
Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt
Tự nhắc mình, rộng lòng, đừng khe khắt
Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.”
Đọc thơ Minh Hiền mà thấy chua xót ngậm ngùi. Tâm lý người bệnh khi nằm
viện, ai mà không mong muốn có người thăm hỏi, bạn bè ư? Đoàn thể ư? Tất cả đều
chỉ thoáng qua! Còn người thân nhất là chồng, đầu gối má kề thế mà “Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu”,
rồi lại tự mình an ủi, chấp nhận cam chịu với số phận. Minh Hiền tái dựng
lại mẫu người Việt
Với 5 khổ thơ Minh Hiền đã tạo dựng nên một màn bi kịch nhưng lại có
hậu. Chị viết thơ mà như viết truyện, có lẽ Minh Hiền là nhà văn thì đã cho độc
giả thưởng thức một chuyện ngắn khá thú vị với những cá tính của hai nhân vật
chính là người vợ trung hậu đảm đang rất mực yêu chồng, và người chồng lãnh
đạm, vô tâm coi thường vợ. Qua thơ của chị, phái mày râu mới thấy rằng rất cần
và biết ơn chị em phụ nữ nhiều hơn.
Nghiêm Thản
TIẾNG
MƯA HAY TIẾNG LÒNG
Qua
thi phẩm “Mưa đêm nhớ anh” của
Nguyễn Thị Lộc
ĐÊM MƯA NHỚ ANH
Đêm
mưa từng giọt rơi rơi
Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này
Căn phòng lạnh
lẽo bấy nay
Xót thương người ở chân mây cuối trời.
Nỗi niềm năm
tháng đầy vơi
Mong sao lo được cuộc đời ấm no
Mình em gắng sức
chăm lo
Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.
Các con khôn lớn mỗi ngày
Học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm
Việc nhà việc
nước vẹn toàn
Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.
Nhớ bao ký ức trong mơ
Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh... canh thâu nhớ người!
Nguyễn
Thị Lộc
Lời bình của Nghiêm Thản
Mỗi hạt mưa rơi rơi nỗi buồn lại như thấm
vào tim, nhìn
mưa lúc nào cũng có những nỗi buồn man mác không tên, những cơn đau đáu trong
nguời, những muộn phiền… Nhưng nỗi buồn không tên lại đẹp một cách lạ kỳ chỉ có
những người trải lòng cùng mưa mới hiểu, buồn nhưng không rơi nước mắt, chắc có
lẽ trời đã khóc thương dùm. Mưa luôn mang đến
cho con người ta nhiều những cảm xúc, đặc biệt là khi con người ta yêu, và mỗi
người là một cảm xúc khác nhau trong tình yêu. Những hạt mưa hình như cũng đã
đánh thức những ký ức những kỷ niệm rất xa xăm với tuổi 82 của tác giả Nguyễn
Thị Lộc, da diết nhớ đến người chồng đã quá cố. Đây cũng chính là tình cảm và
phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam :
. “Đêm mưa từng giọt rơi rơi
Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này
Căn phòng lạnh
lẽo bấy nay
Xót thương người ở chân mây cuối trời.”
Câu thơ day dứt xót xa, những giọt mưa như
cứa vào lòng. Tình cảm, phẩm chất của người phụ nữ Việt
“Đêm nằm nghe tiếng mưa
rơi
Xốn xang nỗi nhớ một
người xa xăm
Gió luồn cơn rét lạnh
căm
Tái tê cõi dạ như dằm trong tim”
“Tâm sự với
em – Lê Hoàng”
Có lẽ cái xót
xa, nỗi đau ấy người trong cuộc mới hiểu hết được nỗi lòng tác giả, họ đã hy
sinh tình cảm riêng tư của mình để nuôi dạy con khôn lớn thành người. Chứng tỏ
rằng những người phụ nữ như thế họ rất yêu chồng, thương con. “Chồng em áo rách em thương” Đó cũng là
cái đức của người vợ, người mẹ Việt Nam, dù khó khăn đến mấy khi thiếu một bờ
vai làm chỗ dựa, nhưng họ vẫn tần tảo sớm hôm mong sao có được cuộc đời ấm no:
“Nỗi niềm năm
tháng đầy vơi
Mong sao lo được cuộc đời ấm no
Mình em gắng sức
chăm lo
Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.”
Với mạch thơ đầm ấm thiết
tha da diết cứ chảy đều đều ngôn từ không hoa mỹ giọng thơ tự sự, ta càng thấy
cái “nỗi niềm năm tháng đầy vơi ” của
tác giả, mong sao con cái mình vẫn giữ được cái nề nếp gia giáo của gia đình.
Viết về mẹ là vậy, người mẹ luôn là bóng
mát che chở cho đàn con, “chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo nhường con”. Nhà thơ Lộc Tịnh
viết về mẹ cũng không kém phần cảm động:
“Lau nước mắt vì con lam lũ,
Thấm mồ
hôi bởi số nhọc nhằn.
Hàng nghìn, hàng vạn gian truân
Quê nghèo
vất vả, phong trần gió sương.”
(Mẹ tôi – Lộc Tịnh)
Tác giả Nguễn Thị Lộc vẫn mong như bao bà mẹ khác
mong, đó là tấm lòng của người mẹ:
“Các
con khôn lớn mỗi ngày
Học hành chăm chỉ,
khéo tay hay làm
Việc nhà việc nước vẹn toàn
Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.”
“Các
con khôn lớn mỗi ngày, học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm”, đó chính là
công lao của người mẹ. Người mẹ như một cô giáo trong nhà có đủ tứ đức “công, dung, ngôn hạnh” thay chồng nuôi
con, làm mát lòng chồng nơi chín suối. Cụm từ “gương anh sáng ngời” tác giả đã cho ta thấy rõ ràng đây là một gia
đình gia phong nề nếp. Các con càng khôn lớn thành đạt người vợ lại càng nhớ
tới người chồng thân yêu của mình, bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức lại ùa về:
“Nhớ bao ký ức
trong mơ
Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh... canh thâu nhớ người!”
Bên bàn thờ chồng, bên di
ảnh chồng chắc người vợ thầm nghĩ anh hãy về chia vui cùng vợ và các con. Khổ
kết câu thơ lại càng da diết yêu thương, chứng tỏ rằng ở tuổi 82 mà tâm hồn của
tác giả còn rất trẻ, đầy sức sống, bởi giọng thơ rất trẻ.
Với 16 câu lục bát mượt mà đầy chất trữ
tình, tác giả chia làm 4 khổ, bố cục chặt chẽ mạch lạc, như một bài thơ tứ
tuyệt hoàn chỉnh, khổ đầu là mở, khổ 2 là thực, khổ 3 là luận và khổ cuối là
kết. Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc thấy một mẫu người phụ nữ Việt Nam
có đẩy đủ phẩm hạnh. Bài thơ thể lục bát rất chuẩn ngọt ngào hiệp vần tăm tắp,
khiến người đọc không nhàm chán. Bài thơ viết theo chiều mặt phẳng ngôn từ giản
dị không hoa mỹ trìu tượng, dễ hiểu, tác giả trải lòng mình, nhưng lại như dựng
lên một tấm gương để con cháu và người đời noi theo. Đây là một thành công của
người cầm bút ở tuổi 82. Sức viết đầy triển vọng, rất tiếc tác giả lại vào tuổi
Hạc tuổi Tiên. Chúc cụ bách niên giai lão vui vẻ cùng con cháu.
NHỮNG CẢM XÚC VƠI ĐẦY TRONG TẬP THƠ ĐẦU TAY “THÁNG BA” CỦA
MINH HIỀN
Tôi rất may mắn được Minh Hiền gửi
tặng bản thảo tập thơ mà chị chưa đặt tên. Chị tâm sự : Em sẽ đặt tên cho tác
phẩm đầu tay này là “Tháng ba”. Bởi
tháng ba với em rất nhiều kỉ niệm. Sau khi đọc hết, tôi cũng rất tâm đắc với sự
suy nghĩ của chị. Quả thật trong tập thơ chị viết rất nhiều về tháng ba, những
hình ảnh tháng ba như gợi nhớ gợi thương, tháng ba như khắc sâu vào tâm trí
chị.
Trong tập “Tháng ba” Minh Hiền
đã chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, lúc ngọt lúc bùi, lúc vui buồn, lúc thăng
lúc trầm. Chị ca ngợi quê hương, non sông đất nước, bạn bè. Về biển đảo, tình
yêu đôi lứa chị viết :
“Bờ cát dài xa xa mãi khoảng không
Con dã tràng vê nỗi buồn vào cát
Hạt từng hạt, lăn tròn man mác
Khoảng lặng xa mờ, em và biển nhớ mong”.
(Đêm trên biển)
Để giữ gìn biên cương, các bạn trai đã tạm xa người yêu, đến nơi đảo
chìm đảo nổi, thì tránh sao được những nỗi buồn man mác. “Em và biển nhớ
mong" đó
là hình tượng sự hy sinh cao đẹp của tình yêu nam nữ. Minh Hiền, chị còn vẽ nên
bức tranh
biển đảo thật đẹp, và khẳng định chủ
quyền của mình :
“Biển
đảo ngày đêm mênh mang lộng gió
Sóng xô bờ dào dạt bản
tình ca
Nắng vẫn chan hòa, nắng
thừa trên đá
Biển hiên ngang, biển
đảo của ông cha”.
(Biển đảo)
Tổ Quốc ta thật đẹp, nhìn trên bản đồ hình chữ S, biển đảo như nắm gạo
vãi ra, ông cha ta đã giữ gìn từng tấc đất để “biển vẫn hiên ngang”.Từ nơi biển đảo Minh Hiền lại ngược lên miền
sơn cước để đến với Khau Vai chợ tình:
“Chợ tình đã tới tràn đêm
Khau Vai ai đến mang
duyên đi tìm
Phận em bẩy
nổi ba chìm
Đò vơi sang vội,
ngược miền lũ dâng”.
(Khau Vai phiên tình)
Có lẽ cả Á Đông nói chung và Việt nam nói riêng có một chợ tình mang mầu
sắc của phương Tây, mà Minh Hiền đã minh chứng được.Quả là “tình đầu dễ mấy ai quên” họ ngược cả “miền
lũ dâng” để đến với nhau cho dù núi cao vực thẳm. Với bước chân
lãng tử của một văn nghệ sĩ từ vùng
cao xa xôi chị lại về thăm mộ nhà thơ Nguyễn Bính :
“Tôi về thăm mộ nhà thơ
Hoa xoan rụng tím ngẩn
ngơ tình đời
Chẳng còn cái dậu mồng tơi
Cửa cài then đóng ở nơi
nhà nàng”
(Thăm mộ Nguyễn Bính)
Viếng mộ Nguyễn Bính mà chị ngậm ngùi cho mối tình của nhà thơ quá cố.
Chị thấy “đầy đồng sắc cỏ hương bay / Hậu
sinh Nguyễn Bính xin vay thơ tình / Áo
the ai đứng đầu đình / Mớ ba mớ bẩy
trăng rình ngắm em”. Cũng như Nguyễn Bính chị lo cho những em gái dại khờ :
“Em ơi lên tỉnh chớ lâu
Ngày về nhớ vẹn nguyên
mầu chân quê”
(Đọc thơ Nguyễn Bính)
Bước chân của chị đặt trên mọi miền đất nước. Về quê Bác làng Sen Minh
Hiền không quên đến Hà Tĩnh tới ngã ba Đồng Lộc thăm viếng mười cô gái thanh
niên xung phong đã ngã xuống cho Tổ Quốc hồi sinh :
“Ngã ba Đồng Lộc mười cô con gái
Cuốc xẻng bồ cào san lấp hố bom
Trinh trắng tươi nguyên một thời phơi phới
Hiến dâng mình cho đất
nước vẹn nguyên”.
Có lẽ Minh Hiền sinh ra để đi và viết, đi mãi rồi chị lại về với nơi
chôn nhau cắt rốn của mình. Nơi có mồ mả ông cha, nơi có lời ru của mẹ, có
tiếng
võng đưa kẽo kẹt, có cánh diều bay
bổng tít từng không :
“Tôi lại
về thân thương giữa miền quê
Nơi sinh ra có ngôi nhà yêu dấu
Nơi có tình mình ngày đêm nung nấu
Sáo diều ngân mãi đến
buổi hoàng hôn”.
(Bức tranh quê)
“Quê hương là chùm khế ngọt”.Ai
ai cũng có một miền quê, nơi chứa chất đầy những kỷ niệm buồn vui, nơi chia sẻ
vơi đầy nỗi lòng, “nơi có tình mình ngày đêm
nung nấu”. Nơi có “cổng làng mắc nợ
bước chân”đã “trải bao năm tháng vẫn
xoay vần” vẫn “rêu phong loang lở phủ
dầy”và vẫn “cong cong mái lợp phủ đầy
thời gian”, để mọi người :
“Xa đi nhung nhớ chứa chan
Về gần thao thiết
nồng nàn cổng quê”
(Cổng làng)
Cổng làng thân thương là vậy, và cũng là nét văn hóa đặc chưng của dân
tộc Việt
nhân tiến sĩ đến mọi người dân đều qua cổng làng. Khi bước
chân ra đi tha hương cho lúc về với quê hương làng xóm thân yêu cũng qua cổng
làng. Người lính bồng súng ra đi cứu nước cũng qua cổng làng. Người con gái đi
lấy chồng nơi đất khách quê người, lúc trở về thăm mẹ cha cũng qua cổng làng.
Cả khi trút hơi thở cuối cùng để về nơi cực lạc cũng qua cổng làng… Trong nhộn
nhịp thời mở cửa, từ làng lên phố nhiều nơi đã đánh mất đi cái đẹp thuần túy
đó, Minh Hiền đã xót xa cho những vùng quê ấy :
“Làm gì còn gốc cây đa
Mà trèo quán dốc thương
ta với mình”
“Tìm đâu ra luống rau lang
Bờ tre rặng chuối mơ
màng bãi dâu”.
(Còn
đâu)
Tuy vậy chị vẫn bắt gặp những mối tình trong trắng ngây thơ
của nam thanh nữ tú trong làng, họ yêu nhau thật giản dị, những kỷ niệm ngập
tràn hương đồng gió nội, mang đậm mầu sắc của một vùng quê thanh bình, họ yêu
nhau bắt đầu từ:
“Áo trắng em nhuộm tím quả mồng tơi
Anh
vẽ hình trái tim lấp ló
Hai nhịp đập xốn xang mạch
nhớ
Kỷ niệm ngập tràn
hương bưởi hương chanh”.
(Hoài
niệm tháng năm)
Tình yêu đôi lứa hồn nhiên là vậy, rất
giản dị, nồng nàn, xao xuyến một miền quê yên ả. Về tình cảm gia đình, về mẹ
chị viết đằm thắm thiết tha mặn nồng:
“Lâu
lắm rồi con mới về thăm mẹ
Gió đông buồn lạnh buốt chiều cuối năm
Căn buồng xưa vẫn ướt
chỗ mẹ nằm
Ông bình vôi tha thẩn
nơi góc cửa”
(Về
quê nhớ mẹ)
Gió đông về càng làm cho nỗi buồn nhớ
người mẹ đã khuất thêm da diết, mẹ lúc nào cũng hết lòng
vì con “căn buồng xưa vẫn ướt chỗ mẹ nằm”, chỗ khô ráo mẹ nhường cho con.
Người đi rồi bình vôi vẫn còn đấy, bao kỷ niệm vẫn còn đây. Cả đời chị “canh cánh bên lòng / hình bóng mẹ hư vô mờ
ảo”. “Tháng ba” là tháng nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất với chị, cũng từ “tháng ba” chị vĩnh viễn không còn nhìn
thấy mẹ! Lúc ấy chị còn bé lắm, nên tình cảm chị bị dồn nén, thơ chị được dồn
nén, nên đã bật ra những cảm xúc nghẹn ngào :
“Tháng
ba nào con cũng về với mẹ
Khói hương trầm nghi ngút
lệ hàng mi
Mẹ ra đi ngày ấy còn
gì
Con canh cánh không thể
vơi nhớ mẹ”
(Lời
ru tháng Ba)
“Tháng ba” như của riêng chị,
không gian đầy ắp những nỗi buồn man mác, như chơi vơi hẫng hụt, bởi chị luôn
nhớ đến mẹ, chị luôn thiếu tình cảm của mẹ:
“Không
gian này như thể chơi vơi!
Con tìm mẹ trong muôn
và thương nhớ
Nụ bòng bòng, xanh xanh
e ấp nở
Cầu ao mùa này chẳng
thấy mẹ.Tháng ba”.
(Tháng
ba với tôi)
Càng thiếu thốn tình cảm bao nhiêu, thì con người ta càng giầu tình cảm
bấy nhiêu. Minh Hiền, chị là con
người đa sầu đa cảm, nên thơ của chị rất giầu tình cảm, hình bóng mẹ như theo
suốt cuộc đời chị :
“Mẹ đi buồn cả hàng cau
Chum tương chát mặn,
trầu đau úa vàng”
(Nhớ mẹ)
Đọc những dòng tâm sự này mà thấy xót
xa.“Sểnh còn chú, sểnh mẹ bú dì”.Chị
rất may mắn được dì ruột cưu mang, nên chị coi dì như mẹ đẻ của mình :
“Hai quê ở giữ chợ Đu
Còng lưng dì cõng
lời ru mẹ về
Cỏ may ấm áp
chân đê
Đội sương sướt
mướt tiếng quê gọi dì”.
(Mẹ dì của con)
Đọc thơ Minh Hiền ta còn thấy
chị là một người vợ chung thủy, hiền thục, khéo léo, mềm mỏng với chồng, thật
hài lòng có một người vợ như chị. Gia đình chị thật hạnh phúc :
“Anh
đừng buồn vì người khác yêu em
Đã là hoa phải có
nhiều người ngắm
Bông hoa đẹp siêu
lòng người say đắm
Đủ sắc mầu tạo hóa
đã tăng riêng”.
(Anh đừng buồn)
Gia đình hạnh phúc là điều mong ước của nhiều
người, với các con chị luôn ôn lại
những kỷ niệm xưa của bà, của ông để con cháu noi theo :
“Mẹ ngồi lục lại nhớ quê
Mo cau còn gói nắm
cơm xa nhà
Ngủ ngon đi cháu của bà
Bát cơm nguội vét
thật thà vào xưa”
(Tiếng vọng lời ru)
Tập thơ “Tháng ba”của Minh Hiền là những lời tâm tình chị viết
ra từ máu thịt ruột gan mình, lời thơ đằm thắm thiết tha da diết, câu thơ đẹp,
giản dị mang nhiều mầu sắc dân tộc, gần gũi với quần chúng. Nhiều ngôn từ mới
lạ nhưng không cầu kì, cấu tứ chặt chẽ, nên cuốn hút độc giả. Thơ của chị còn
phản ánh được cái thực của xã hội thời mở cửa, sự hi sinh tình yêu đôi lứa để
giừ gìn biên cương biển đảo. Xin các độc giả hãy chia sẻ cùng chị, để chị có
giầu cảm xúc viết nhiều bài thơ hay hơn nữa. Chúng ta hãy đón đọc nhưng tập sau
của chị.
Nghiêm
Thản
CHIẾC ÁO TƠI HAY
BÓNG MÁT CỦA MẸ
QUA THI PHẨM “ÁO
TƠI MẸ MẶC”
CỦA NGUYỄN THỊ
LỘC
ÁO TƠI MẸ MẶC
Áo tơi mẹ mặc một
thời
Che mưa, che nắng, che trời bão giông
Hai sương một
nắng trên đồng
Cái nắng tháng sáu mưa giông ngày hè
Chang chang nắng, mưa dầm dề
Áo tơi nón lá đi về sớm trưa
Khi ruộng cấy,
lúc cày bừa
Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu
Con nghe mẹ kể
lần đầu
Tưởng rằng câu chuyện nơi đâu xa vời
Áo tơi mẹ mặc một
thời
Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay
Áo tơi nghĩa mẹ
cao dày
Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi
Nguyễn Thị
Lộc
Lời bình của Nghiêm Thản
Cái áo tơi được xem là phương tiện hữu hiệu nhất thường được làm bằng lá
cọ khâu từng lớp chồng lên nhau như lợp ngói mái nhà, dày chừng 10mm để che
nắng che mưa, chống rét, còn có thể trải ra thay chiếu nằm để nghỉ ngơi hoặc có
thể dùng để làm mâm dọn cơm ăn, hay dùng để đùm chè để giữ cho chè (trà) xanh tươi. Ông cha ta ngày
xưa nghèo khó chiếc áo tơi còn được dùng làm chăn đắp trong những ngày giá rét.
Từ thời xa xưa áo tơi ra đời nhằm mục đích che mưa, nhưng ngày nay thường được dùng để chống nắng nóng,
hạn chế tia nắng chiếu thẳng xuống lưng và giảm mồ hôi khi đi ngoài trời hoặc
khi làm việc ngoài đồng. Người nông dân mỗi khi làm việc ngoài trời không thể
thiếu được chiếc áo tơi, mang theo được chiếc áo tơi là yên tâm lắm, Trong ca
dao có câu:
“Trời mưa thì mặc trời mưa
Chồng
tôi đi bừa đã có áo tơi”.
Bài “Áo tơi mẹ mặc” của tác giả Nguyễn Thị
Lộc đã nói nên được điều này:
“Áo tơi mẹ mặc một thời
Che mưa, che nắng, che trời bão giông
Hai sương một
nắng trên đồng
Cái
nắng tháng sáu mưa giông ngày hè
Hình ảnh chiếc áo tơi che nắng che mưa của
tác giả Nguyễn Thị Lộc được phác họa
lên lại là hình tượng của người mẹ, người mẹ suốt đời che chở cho con. Câu “Áo tơi mẹ mặc một thời”chỉ là nghĩa đen
của một thời mẹ còn sức lao động, nhưng câu “Câu che mưa, che nắng, che trời bão giông” thì tác giả lại biến cái
thực thành cái ảo. Ở đây hình ảnh chiếc áo tơi lại là mái ấm tình thương của
người mẹ, là mái nhà, là bóng mát che chở cho đàn con. Người mẹ tần tảo “hai sương, một nắng trên” đồng bất chấp
cả những khi thời tiết vô cùng khắc nghiệt như “cái nắng tháng sáu” và “mưa
giông ngày hè” suốt ngày lăn lộn ngoài trời khi “chang chang nắng”, lúc “mưa
dầm dề”. Tấm lòng của người mẹ là vậy. Để có được bát cơm manh áo người mẹ
đã không quản chi khó nhọc:
“Khi ruộng cấy,
lúc cày bừa
Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu”
Người mẹ chịu thương chịu khó là vậy,
chiếc áo tơi che trên lưng người mẹ cũng chính là người mẹ đang che chở ôm ấp
những đứa con. Vậy nên hình ảnh chiếc áo tơi chính là bóng hình của người mẹ
thân yêu. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng đã viết về chiếc áo tơi khi nghĩ đến mẹ:
“
Tôi đỡ lấy chiếc áo tơi của mẹ
Mụn cua càng bò trên mảng sân con
Tháng tám khói lên lúa xuống đòng đòng”
(Trường ca biển – Hữu
Thỉnh)
Nói về chiếc áo
tơi là vậy. Nhưng xã hội luôn luôn phát triển, ngày nay chiếc áo tơi không còn
phổ biến nữa mà dường như đã mai một đi, cái phương tiện che được cả nắng cả
mưa, và nhiều tác dụng khác như chiếc áo tơi đã được thay thế bằng những thứ
khác như áo mưa bằng chất liệu nilon gọn nhẹ, và những chiếc ô dù xinh xắn. Nói
đến áo tơi lớp trẻ hiện nay, trừ những vùng nông thôn thuần túy hầu như không
mấy ai còn biết. Cũng giống như nói đến cái ao
ngay cả những vùng nông thôn đổi mới đã đô thị hóa rồi, các cháu ít tuổi không
còn biết nữa. Vậy thì Bài thơ “Áo
tơi mẹ mặc” lại làm sống lại một thời ông cha ta đã dùng nó như một vật dụng
hữu hiệu, Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã lật lại những trang văn hóa cổ xưa của ông
cha ta, và chiếc áo tơi luôn là hình ảnh của mẹ:
“Áo tơi mẹ mặc
một thời
Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay”
Cả bài thơ tác giả chỉ nói về tác dụng
của chiếc áo tơi đã che nắng che mưa cho mẹ, và những gian khổ của người mẹ
nuôi con. Nhưng chỉ hai câu kết ta mới vỡ ra rõ ràng rằng áo tơi chính là mẹ,
mẹ là chiếc áo tơi:
“Áo tơi nghĩa mẹ cao dày
Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi”
Nói về nghệ thuật đây chính là cách ví von
so sánh chuẩn mực, đưa hình ảnh chiếc áo tơi để kích tấm lòng của người mẹ lên
đến cao trào của bài thơ, chỉ hai câu cuối cũng đã làm cho bài thơ lung linh
tỏa sáng cả bài thơ. Đây chính là nghệ thuật của người cầm bút trong lối sử
dụng ngôn ngữ trong thơ.
Chỉ với 14 câu lúc bát với những ngôn từ
rất đời thường, mang dáng dấp màu sắc giai điệu dân ca, rất mượt mà và súc
tích, tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc hiểu thêm được lịch sử phát triển
của loài người trong lao động đã biết dùng những vật dụng gì để bảo vệ sức khỏa
của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh chiếc áo tơi để biến thành hình tượng
người mẹ. Đây chính là nghệ thuật rất khéo léo khi viết thơ, là vết chấm son
của tác giả Nguyễn Thị Lộc. Xin chúc cụ khỏe mạnh vui cùng con cháu và viết
nhiều bài thơ hay hơn nữa.
Nghiêm Thản
TA HÃY XEM NỮ SĨ KIM QUY BUỐN BÁN NHƯ THẾ NÀO QUA THI PHẨM “PHEN NÀY
QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN”
PHEN NÀY QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN
Rong chơi
ngày tháng thêm buồn
Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền
Tôi gom gió
bán cho thuyền
Mang con sóng dữ bán miền biển khơi
Đem mây bán
cả cho trời
Làm mưa rơi xuống được lời lúa non
Nhặt lên
những lối đường mòn
Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng
Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người
Cuối cùng
còn mỗi nụ cười
Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô
Thèm mua một
cái ô tô
Chở làn quan họ bán cho sông Cầu
Có
tiền mua cái nhà lầu
Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình
Kim Quy
Lời bình của Nghiêm Thản
Châm ngôn có câu “Phi thương bất phú”. Thật vậy nghèo thì buôn thúng bán mẹt mới có
đồng ra đồng vào, lớn hơn một chút thì buôn bán chợ nọ chợ kia, lớn hơn nữa thì
buôn tàu bán bè, mở các cửa hàng cửa hiệu, mở các công ty, buôn bán với nước ngoài,
mở rộng thương mại ngoại thương trên toàn cầu…
Ngay đề bài tác giả đã làm cho độc giả
phải tò mò, có phải chăng đây là một tứ mới lạ: “Phen này quyết chí đi buôn”. Nghe có vẻ quyết tâm lắm! có lẽ tác
giả muốn làm tỷ phú chăng. Nhưng nó không mang tính trào lộng như bài “Chúc nhau” “Phen này ông quyết đi buôn cối” của Trần Tế Xương. Ta thử xem Kim
Quy chị buôn những gì và bán được cái gì cho thiên hạ.
Những bài thơ hay dù ở thể loại nào, thường
câu mở bài và câu kết liên quan với nhau rất chặt chẽ. Ta có thể ghép câu đầu
với câu cuối cũng đã có thể trở thành một bài thơ tương đối hoàn chỉnh dù 2 câu
hoặc 4 câu. Truyện Kiều Nguyễn Du viết: “Trăm
năm trong cõi người ta” và câu kết: “Mua
vui cũng được một vài trống canh”. Đúng thế, chỉ 2 câu lục bát, câu đầu và
câu cuối cũng đã cho chúng ta thấy cái chuyện trăm năm trong một cõi đời người
nó vô cùng lắm, nhưng nếu để mua vui với nhau thì dài lắm cũng chỉ một vài
trống canh là hết. Trong bài thơ của Kim Quy chị mở đầu:
“Rong chơi ngày tháng thêm buồn
Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền”.
Dù chị viết cho chị hay chị viết cho ai
đó cũng thế thôi, người ta có thể khẳng định rằng con người này rất mực phong
lưu. Biết bao người phải lao tâm khổ tứ mới kiếm được miếng cơm manh áo, nhưng
con người trong thơ của Kim Quy thì lại “thêm
buồn” vì suốt ngày suốt tháng “rong
chơi”, Vì thế mới nẩy sinh ra cái ý nghĩ “quyết chí đi buôn”. Nếu ta ghép 2 câu đầu với 4 câu kết:
“Thèm mua
một cái ô tô
Chở làn quan họ bán cho sông Cầu
Có
tiền mua cái nhà lầu
Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình”
Bây giờ ta mới thấy
cái tư tưởng táo bạo của tác giả, muốn mua cả xe hơi nhà lầu chỉ để phục vụ cái
đẹp mà chúng ta đang thực hiện là sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng, một
nếp sinh hoạt đã có từ đời Trần là các “Tao
đàn thi ca”. Những tổ chức ấy nay chúng ta gọi là câu lạc bộ… Thơ là vậy,
nó mang tính đặc trưng, ước lệ, thực tế khó có mấy ai làm được việc này, (trừ
bà Y Kim Linh vợ nhà thơ Nghuyễn Đình Chiến, đang ở xã Văn Võ, huyện Chương Mỹ,
Hà Nội đã xây một ngôi nhà lưu niệm cho chồng và hiện nay các CLB thơ vẫn tổ
chức tới thăm viếng). Nhưng dù sao câu thơ cũng đã chuyển tải được ước mơ của
riêng tác giả và chung của mọi người.
Câu kết tác giả đã biến cái tôi thành cái
ta, cái riêng thành cái chung đó là những ước vọng của nhiều người. Nhưng chúng
ta chưa biết Kim Quy chị buôn những gì và liệu có tiền để thực hiện ước mơ lớn
lao của mình hay không ta xem tiếp những câu tiếp theo, thì ra tác giả Kim Quy
cũng là một nhà buôn sành sỏi:
“Tôi
gom gió bán cho thuyền
Mang con sóng dữ bán miền biển khơi
Đem mây bán
cả cho trời
Làm mưa rơi xuống được lời lúa non
Nhặt lên
những lối đường mòn
Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng”
Những câu thơ trên chứng tỏ cho chúng ta
thấy chị buôn bán rất có nghề, rất cao tay, chị biết những mặt hàng của mình
phải bán cho ai, những đối tượng nào cần mua để bán. Chị “gom gió” để “ bán cho thuyền”,
vì lẽ thường thuyền rất cần gió để căng buồm và “Thuận buồn xuôi gió” thì việc gì cũng xong. Chị “mang con sóng dữ” để “bán cho miền biển khơi”. Ở đây qua từ “ Sóng dữ” chứng tỏ đây là sự tìm tòi, và
lao động nghệ thuât chứ không còn là viết của tác giả, bởi nó mang tính logic,
những thứ dữ tợn thì bán cho ai, “ chó dữ
mất láng giềng” nữa là, cho không người ta lấy cho còn là may. Nhưng nếu
bán cho biển khơi thì có khi lại được nhiều tiền, bởi biển hiền hòa là thế
nhưng nhiều khi cũng hung dữ vô cùng. Chị “đem
mây bán cả cho trời” câu thơ đã hay còn đẹp, mang đầy tính họa trong ngôn
ngữ thơ. Những câu thơ đẹp thường các tác giả hay vận dụng hình ảnh trăng hoa,
núi non, sông nước, sơn thủy hữu tình… Ở đây Kim Quy vẽ cho ta thấy một bầu trời
mây thật đẹp thật yên bình, đầy những đám may trắng để chuẩn bị cho những cơn
mưa. Ta hãy xem Kim Quy dùng từ, chỉ một từ “cả” cũng đã cho ta thấy câu thơ đầy tính nhân văn, bởi nếu mây là
đối tượng mua để làm “mưa rơi” tưới mát cho con người, cho
ruộng đồng cỏ cây hoa lá, thì rẻ cũng bán, mua tất cả cũng bán. Câu thơ ảo mà
thật, chị “nhặt lên những lối đường mòn”
để rồi bán cho sườn núi, vì dưới sườn núi thường là nhưng lối đường mòn, những
lối đi của người sơn cước, những lối mòn của những cặp vợ chồng khi chồng say
mèm nằm vắt lên lưng ngựa để vợ đưa về cho trọn nghĩa vợ chồng cho “tròn vầng trăng” là vậy. Câu thơ: “Bán cho
sườn núi” để “tròn vầng trăng” tưởng như vô lý, bởi bán “ những lối đường mòn” cho “sườn núi” thì làm sao mà “tròn vầng trăng” cho được, có cái gì để
làm được điều đó. Những bước chân của người sơn cước làm nên lối đường mòn để
tìm đến miếng ăn, tìm đến manh áo, tìm đến hạnh phúc, nơi anh đi là lối em đưa
về, để khép lại thành quĩ tích của đường tròn, để tình yêu thêm tròn trịa thì
lại là có lý.
Chỉ 3 cặp lục bát mà tác giả đã cho ta
thấy kẻ cần mua người cần bán rất tâm đầu ý hợp. Chưa đủ, Kim Quy còn dựng nên
cảnh mua bán thật sinh động:
“
Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người”
Tác giả đặt ra một
câu hỏi tu từ thật tuyệt. Trên đây tác giả đã dựng lên 4 mặt hàng “gió, sóng dữ, mây và lối mòn”, kẻ thuận
mua và người vừa bán, còn thứ măng non để bán cho bụi tre, cho tre thêm ấm bụi.
Có phải chăng Kim Quy muốn nói rằng trên hành tinh này ai cũng mưu cầu hạnh
phúc. Hình ảnh tre ấm bụi cũng đã cho ta thấy sự ấm áp rồi. Câu thơ là một câu
hỏi, nhưng lại tự trả lời, đó cũng là lối viết rất độc đáo của Kim Quy. Chị đã
dựng lên một cảnh mua bán có tình có lý, cái thì muốn bán hết đi dù rẻ cũng
bán, cái thì rẻ như cho không cũng muốn bán và nụ cười hả hê đã đến với chị:
“Cuối cùng
còn mỗi nụ cười
Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô”
Niềm vui trọn vẹn đã
đến với chị, “nụ cười” chính là niềm
vui của chị và cũng là niềm vui của cả nhân loại. Chúng ta chỉ chia vui với nhau chứ chẳng ai đem cái niềm vui của
mình đi bán để rồi chuốc lấy khổ đau.
Bài thơ không dài chỉ với 16 câu lục bát
thật ngọt ngào êm dịu, mượt mà đằm thắm, bố cục rất chặt chẽ, phần kết rất có
hậu. Kim Qui chị đã đẩy nội dung bài thơ lên đến cao trào, một cảnh mua bán với
những mặt hàng ảo mà thật rất sinh động có mua có bán và có cái cương quyết mang
về không bán đó là niềm hạnh phúc của tác giả và trong mỗi chúng ta. Đây là sự
lao động nghệ thuật, chị đã tìm được một tứ thơ mới lạ, nhưng ngôn ngữ thân
quen như lời nói cửa miệng mà bắt độc giả phải suy ngẫm. Chị đã biến cái riêng
thành cái chung của nhân loại, đó là tính nhân văn, là lòng nhân ái và những
ước mơ của chị cũng như của mọi người. Xin chúc mừng chị
Nghiêm Thản
GIỌT MƯA HAY GIỌT SẦU
QUA THI PHẢM “MƯA” CỦA THẨM BÌNH
MƯA
Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!
Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng
Giọt sầu se sắt tơ lòng
Giọt đau nức nở người trong cõi mồ.
Thẩm Bình
Lời bình: Nghiêm Thản
Do sự vận hành của trái đất trong hệ mặt trời, hay nói một cách khác tạo
hóa đã sinh ra con người, sinh ra trái đất thật kỳ diệu. Trên mọi miền của hành
tinh xanh đã xảy ra thời tiết khác nhau, nơi nắng nơi mưa, nơi mát mẻ ôn hòa,
nơi bão tố phong ba… Đã và đang ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống con người,
tác động đến tâm tư tình cảm con người. Mưa. Cũng chỉ là mưa, từ thời cổ xưa,
có nơi hạn hán kéo dài thì con người lập đàn cầu cho mưa thuận gió hòa, khi có
được giọt mưa con người sung sướng xiết bao. Nơi thì mưa nhiều gây nên lũ lụt
làm thiệt hại biết bao tài sản và đời sống của con người đã bao công tạo dựng.
Viết về đề tài mưa, là chủ đề mà nhiều người viết, bởi mưa tác động đến
con người thật nhiều. Trong thi phẩm “Mưa” của nữ sĩ Thẩm Bình ta thấy một nỗi
buồn man mác trong chị, hình như nó đeo đẳng theo chị suốt cuộc đời. Mỗi lần
mưa kéo dài lê thê dầm dề rả rích càng khơi dậy nỗi buồn trong chị, buộc chị
phải kêu lên:
“Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!”
Có lẽ chị không chịu được nỗi buồi da diết khi nghe những giọt mưa tí
tách bên thềm. những giọt mưa như đang thấm lạnh con tim, như đang bào vào từng
làn da thớ thịt chị, như muốn cướp đi những niềm vui, những khát khao, những
ước mơ, những đợi chờ, trong khi chị mất mát quá nhiều chăng. Câu thơ dù chị
viết cho chị hay chị viết hộ cho người khác vẫn làm động lòng người đọc. Với
cụm từ “Thôi đừng mưa nữa” ta đã thấy
cái tâm trạng khó chịu của con người khi thời tiết không bình thường. Câu thơ
như một câu nói cửa miệng người đời, nhưng ta thấy tác giả đã đi từ hướng nội
sang hướng ngoại, đi từ cái thực tại chẳng ai muốn mưa dầm dề kéo dài lê thê dẫn
đến tâm trạng buồn buồn của con người. Cũng như nhà thơ Lê Nghiêm đã viết:
“Huế ơi! Sao Huế mưa nhiều rứa?
Mưa rầm rì rả rích mãi không thôi!”
“Thôi đừng mưa nưa mưa ơi!” Câu thơ nghe buồn đến não ruột khi tác
giả liên tưởng đến những số phận không may mắn của con người:
“Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng”
Thẩm Bình thương bao hạt mưa vỡ ra rồi nổi trôi thành bong bóng phập
phồng, rồi lại tan như bóng xà phòng, hay chị thương cho những số phận con
người không lấy gì may mắn. Đọc đến đây ta thấy rõ ràng Thẩm Bình viết cho số
phận người con gái. Câu thơ đầy tính nhân văn, giọng thơ đầy chia sẻ. Một lối
viết nhân cách hóa, một lối so sánh khéo léo. Đời người con gái mười hai bến
nước, biết bến nào đục bến nào trong mà chọn, chỉ như hạt mưa sa, sa đâu ấm
đấy, không may mắn phải chịu cảnh lỡ làng cũng đành cam chịu. “Thương bao hạt vỡ” Câu thơ như than vãn
mà xé lòng xé ruột, có nỗi đau nào bằng khi cuộc đời người thiếu phụ đang sống
bình yên hạnh phúc mà bị đứt gánh giữa đường, để rồi cam chịu cảnh phòng không
lạnh lẽo, cô đơn thăm thẳm trong bốn bức tường, không người chia sẻ. “Hạt vỡ nổi trôi phập phồng” lại một ý
nữa, Cuộc đời người phụ nữ thật khổ, chịu bao những thiệt thòi, mất mát, có
phải chăng là những hạt vỡ chăng? Qua từ “phập
phồng” ta thấy cái đoạn trường của người thiếu phụ. Bước đi bước nữa ư? Đi
tìm một hơi ấm để an ủi cuộc đời, để quên đi những đau buồn chăng? Liệu bến mới
có làm nguôi ngoai nỗi khổ không? Liệu có hết “nổi trôi” không? Chưa hết. “Trời
mưa bóng bóng phập phồng / Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?”. Câu thơ chứa
đựng bao câu hỏi, bao dằn vặt, chỉ một câu bát mà chứa bao hàm ý, đây chính là
giá trị nghệ thuật của câu chữ, và cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ. Thẩm Bình
đã biến giọt mưa thành những giọt sầu khiến người đọc phải trạnh lòng:
“Giọt sầu se sắt tơ lòng
Giọt đau nức nở người trong cõi
mồ”.
Thật vậy giọt mưa hay giọt sầu để
lòng người se sắt lại. Nguyễn Du viết: “Dẫu
lìa ngó ý còn vương tơ lòng” Dù mối tình đầu hay tình cảm vợ chồng còn
vương mãi trong tim người phụ nữ. “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” kia mà
quên làm sao được, kể cả khi đã bình yên nơi bến mới. Tiếng mưa tí tách rả rích
hay tiếng lòng người thiếu phụ suốt nửa cuộc đời chỉ biết nằm nghiêng như nhà
thơ NT cũng đã rất thông cảm và chia sẻ với những người vợ liệt sĩ:
Nằm
nghiêng, mình ở trong gương
Bao năm vẫn thế mình thương lấy mình
Mơ màng,
rạng ánh bình minh
Đã đôi chim sẻ dụ tình đuổi nhau.
Khổ lắm chứ! “Ai nằm trong chăn mới
biết chăn có rận” người ở lại thì “đau
nức nở” Còn người đi xa có thấu hiểu cho chăng, những giọt mưa, những giọt
sầu có thấm sâu vào đất nâu nứt nẻ, có thấu hiểu nỗi đau của người ở lại. Chắc “người trong cõi mồ” cũng không an lòng
nơi chin suối. Trời càng mưa càng “se sắt
tơ lòng”.
Bài thơ Tứ tuyệt lục bát chỉ 4 câu nhưng
đã chứa đựng bao tình cảm hàm xúc của người phụ nữ. Với cách sử dùng ngôn ngữ
trong thơ rất đời thường, cách so sánh nhân cách hóa mà không trìu tượng, dễ
hiểu, gây cảm xúc mạnh cho người đọc. bài thơ bố cục rất mạch lạc chặt chẽ, cách
nén câu nén chữ để thể hiện đúng luật của thơ tứ tuyệt: Mở, thực, luận, kết mà
vẫn biểu cảm được hết ý và tứ thơ. Đây là dấu chấm son của nữ sĩ thẩm Bình.Chúc
chị có nhiều thành công trong sự nghiêm văn chương.
Hà Nội ngày 14.12.2018
Nghiêm Thản
CÁI ĐẸP HỒN HẬU CỦA CÔ GÁI THỊNH LONG QUA THI PHẨM “TRẮNG TƯƠI
THỊNH LONG” CỦA PHAM TÂM DUNG
TRẮNG TƯƠI THỊNH LONG
Ta về với biến Thịnh Long
Ngất ngây gió hát, trắng bông mây trời
Yếm trần, thể ngọc trắng tươi
Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.
Sóng xô, sóng níu, sóng đè
Sóng sao không đẩy em về phía tôi?
Bồng bênh giỡn sóng em cười
Xin em hãy nghé sang tôi một lần!
Tôi tìm trên cát dấu chân
Vô tình sóng lướt tội thân dã tràng
Trắng tươi - Trắng đến mơ màng
Mình tôi với biển lang thang. . . đi về...
Phạm Tâm Dung
Lời bình của Ngiêm Thản
Cũng là lang thang trên facebook để tìm
những hạt vàng trong cát. Cũng là tính tò mò tôi tìm đến trang “Thi nhân miền Cổ tích”. Sao lại gọi là “miền cổ tích”, nghe là lạ. Nói đến cổ
tích phải là cái gì đó rất xa xưa, có thể đi vào huyền thoại, nhưng đây lại là
“miền”, đã là miền ắt phải là một địa
danh nào đó. Không biết ai đó đã đặt ra cái tên này nghe thật thú vị và có cái
gì đó rất sâu lắng. Nghe tưởng như vô lý, thì ra đây là nơi hội tụ của các thi
nhân. Một mảnh đất rất thơ mộng có hai cây gạo, và cây si già hàng trăm năm
tuổi, có chiếc “thuyền thơ” ở Thái Bình, là nơi các thi nhân đến để giao lưu
thơ, là nơi có những thi nhân bao đời sinh cơ lập nghiệp, đã gắn liền với từng
tế bào trong cơ thể họ, là nơi không bao giờ và không bao giờ có thế quên được.
Vật đổi sao dời! Nay họ không ở nữa chỉ còn là chiếc “thuyền thơ” neo đậu. Trên
trang này tôi bắt gặp bài thơ của một thi nhân miền cổ tích Phạm Tâm Dung. Nơi
chôn nhau cắt rốn của chị lại là miền cổ tích. Nhưng chị không viết cho miền cổ
tích mà chị viết cho một vùng miền khác, đó là biển Thịnh Long Hải Hậu Nam
Định. Một thi phẩm có cái tên rất lạ “Trắng tươi Thịnh Long” bằng 12 câu lục
bát mộc mạc, giản dị. Tác giả phải là người giầu cảm xúc lắm. Đứng trước biển
Thịnh Long mà chị thấy cái đẹp đến thơ mộng, đến ngây ngất:
“Ta về với biến Thịnh
Long
Ngất ngây gió hát, trắng bông
mây trời”
Nhạc điệu của câu câu thơ nghe du dương
êm dịu, nhẹ nhàng như một bản tình ca, còn có cái gì đó thèm ước khát khao, mơ
mộng… Đọc hai câu mở đầu của bài thơ, nếu ai chưa đến biển Thịnh Long cũng phải
đến một lần cho biết. Trước cảnh đẹp mê
hồn ấy tác giả không bỏ sót một chi tiết nào, chị còn thấy cái đẹp của những
người đang sống còn lộng lẫy hơn:
“Yếm trần, thể ngọc trắng tươi
Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.”
Khổ đầu tiên đã là một bản nhạc hay rồi
còn là một bức tranh lung linh huyền diệu. Giữa cái ngân nga của “gió hát” cái thanh khiết của “trắng bông mây trời”, chị thấy “một vùng như thể cây quỳnh cành giao” toả
ra thơm nức, chị còn thấy như “sẵn đúc
một toà thiên nhiên” trước biển Thịnh Long. Bút pháp của chị làm cho giới
mày râu phải ngây ngất, ngất ngây, phải dừng lại mà mường tượng, mà ngẫm nghĩ,
đến mức hờn ghen cả với biển. Thế mới thấy được tình yêu quả là vô cùng mãnh
liệt. chỉ mới thấy ngọc thể nõn nà, trong trắng và cái “bồng bênh giỡn đùa” tinh ngịch trong sáng cùng nụ cười tươi tắn của
người phụ nữ đã mang lòng yêu rồi, đã phải lòng rồi, đã khát rồi, đã ghen rồi.
Cái nhân vật “tôi” vô hình trong thơ
của Phạm Tâm Dung như gào lên “Biển ơi!
Sao chẳng thôi vỗ về” một cái ghen vô cớ thật đáng yêu, giống như cái lẳng
thơ của Thị Màu mà ai cũng thích. Sóng là vật vô chi vô giác còn được cho vỗ về
vuốt ve em. Còn mình thì không. Tiếp đến là những câu thơ mang đầy kịch tính,
chị bắt đầu đẩy tứ thơ lên đến cao trào:
“Sóng xô, sóng níu, sóng đè
Sóng sao không đẩy em về phía
tôi?”
Nhịp điệu thơ bắt đầu dồn dập hơn, chị
cắt nhịp hai hai, để tạo câu thơ như từng lớp, từng lớp sóng cứ dồn dập, dồn
dập hơn lên “Sóng xô, sóng níu, sóng đè”
như tình yêu càng thêm bốc lửa. Cái ghen vô cớ bắt đâu trỗi dậy mạnh hơn, thấy
sóng như kẻ tình địch đã xô, lại níu, đau hơn nữa còn đè lên ngọc thể của người
mình yêu. Câu sau giọng điệu như dịu lại vì người đang yêu đã nhận ra rằng sóng
vẫn chỉ là sóng. Sao tình yêu không đến với tôi, “Sóng sao không đẩy em về với tôi”. Ta cũng có thể suy luận thêm
hình ảnh sóng lại là người chồng cô gái thì càng kịch tính hơn.
Có thể nói đây là một câu thơ tài hoa.
Biết đâu Phạm Tâm Dung lấy cái cớ mượn sóng và em để nói cái rất thật ở ngoài
đời. Sắc đẹp như thượng đế của đàn ông, nhân vật em trong thơ Phạm Tâm Dung hay
cô gái Thịnh Long như một thiên thần:
“Bồng bênh giỡn sóng em cười
Xin em hãy nghé sang tôi một lần”
Trong lúc “bồng bênh giỡn sóng” ấy, thì hoa nở trên môi. Chị đã nói hộ với
giới mày râu rằng “Xin em hãy nghé sang
tôi một lần”. Chỉ cần “nghé”
thôi, một cái liếc nhẹ nhàng thôi để được bốn mắt gặp nhau, để hiểu nhau qua
anh mắt cũng đã sung sướng lắm rồi, vì đó là cửa sổ của tâm hồn. Ở đây ta mới
thấy rõ ràng là Phạm Tâm Dung đã biết chọn lọc ngôn ngữ, chứ không phải viết
trong vô thức. Qua những cụm từ “bồng
bênh” “nghé”. Sao chị không viết
là “bồng bềnh” hay “bềnh bồng” hay là “lênh đênh”… Xét về ngữ nghĩa đều giống nhau cả mà chị chọn lấy từ “bồng bênh” bởi nghe như có cái gì đó
khác hơn, một động thái của trò chơi tinh ngịch, khoẻ khoắn, vui vẻ, lành mạnh
và rất hồn nhiên, chứ không phải “bồng
bềnh” đồng nghĩa với “nổi trôi”,
nếu vậy thì ý thơ sẽ rẽ sang một hướng khác. Còn từ “nghé” thì sao? Sao tác giả không dùng từ “ghé” cho nọn nghĩa hơn. Ở đây ta phát hiện thấy Phạm Tâm Dung đã
thu nhập được cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du, “khách đà lên ngựa người còn nghé theo”. Đó là cái hào hoa phong
nhã, lịch thiệp, cái rất con gái của người phụ nữ thể hiện đủ tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh”. Tác giả thật
thơm miệng khi dung từ “nghé”. Phạm
tâm dung là người đa sầu đa cảm chăng. Thơ chị như chia sẻ nỗi lòng với những
người có mối tình đơn phương:
“Tôi tìm trên cát dấu chân
Vô tình sóng lướt tội thân dã
tràng
Trắng tươi - Trắng đến
mơ màng
Mình tôi với biển lang thang.
. . đi về”
Vậy là tác giả đã xây dựng một cuộc tình đơn phương nhưng lại đẹp bởi
man mác buồn mà không đau khổ vẫn “trắng tươi” như biển Thịnh Long, “trắng
tươi” như cô gái Thịnh Long. Hình ảnh con sóng biển xoá đi con dã tràng nhưng
không xoá đi được tình yêu của người đang yêu vẫn “Trắng tươi - trắng đến mơ
màng”. Cho dù biển xoá đi cả dấu chân em trên cát.
Khổ thơ cuối cùng chúng ta lại thấy tác giả lập lại lần thứ 3 từ “trắng tươi”. Tên bài chị đã nói đến cái
đẹp đến “trắng tươi” của biển Thịnh
Long, lần thứ 2 chị nhắc đến cái “trắng
tươi” của người con gái Thịnh Long. Lần 3 chị nhắc đến cái “trắng tươi” của cả biển Thịnh Long đến
con người Thịnh Long. Từ “trắng tươi”
là từ ta thường nói ra từ cửa miệng hằng ngày, càng không phải mỹ từ, ta lại
thấy vừa quen vừa lạ, quen vì ngôn ngữ ta đang dùng thường ngày, lạ vì một địa
danh mà lại “trắng tươi”. Tất nhiên,
những người có nghề trong thơ họ sẽ hiểu ngay đây là cách viết ảo, hư mà thực.
Mà có tả người con gái cũng chưa mấy ai nói là “trắng tươi”, chỉ một nét chấm phá thế thôi cũng đã làm câu thơ vừa
sạch sẽ lại vừa đẹp. Chị viết cho người con gái Thịnh Long đẹp là thế. Tất cả
những đường cong tuyệt mỹ, những quyến rũ giới mày râu được phát tiết ra từ cái
“trắng tươi” của người phụ nữ, đẹp
như một bông hoa vừa trong trắng, quyến rũ lại vừa tươi tắn hồn hậu.
Rất cảm ơn nhà thơ Phạm Tâm Dung với bài thơ “Trắng tươi Thịnh Long”. Một bài thơ tình hay, chị đã chạm tới nỗi
buồn của những ai có mối tình đơn phương. Cũng rất có thể còn là nỗi đau nữa,
rất có thể người đang yêu lại là kẻ thứ ba. Chứng tỏ rằng Phạm Tâm Dung đang
viết cái “tôi” mà lại thoát ra được
để đi đến cái “ta”. Bài thơ sẽ đi
cùng năm tháng, bởi ta đọc lúc nào cũng đúng, gắn vào thời điểm nào cũng đúng.
Cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ của chị là sự sáng tạo, làm mới câu thơ từ
những ngôn ngữ bình thường. Bài thơ đầy tính nhân văn, bởi tình yêu không bao
giờ có lỗi, đã ca ngợi cái đẹp của con người, của non sông đất nước. Quả là tôi
đã tìm được vàng trong cát. Chúc chị thành công trong sự nghiệp văn chương.
BÀN VỀ TỪ “HOANG HOẢI"
Ngôn
ngữ của loài người luôn luôn được phát triển và mất đi. Một ngôn ngữ mới được
cấu thành hoàn thiện phải mất rất nhiều năm, có khi hàng thế kỷ mới hoàn thiện.
Thí dụ: từ “cây” để chỉ chẵn 1 chục như cây vàng, cây thuốc lá… Hoặc từ “ngon”
để chỉ một người con gái xinh đẹp nết na, đến bây giờ vẫn chưa được hoàn thiện,
vì dùng từ này người ta vẫn thấy có cái gì chưa ổn, vẫn còn như xấc xược. Và
một số từ cổ cũng phải mất nhiều năm mới dần dần mất hẳn đi như từ thiếp, thê…
“Hoang
hoải” là một từ mới không có trong từ điển tiếng Việt, mang tính trìu tượng,
đang dần dần được hoàn thiện, trở thành một trạng ngữ. Thí dụ như từ “thao
thiết” bây giờ đã tương đối hoàn thiện. Nhiều các nhà thơ nhà văn cứ thích khám
phá tìm những ngôn ngữ mới để thể hiện mình, điều đó rất tốt vì đó là sự sáng
tạo. Nhưng nhiều người lại dùng không đúng chỗ cho nên làm mất sự trong sáng
của tiếng Việt.
Dưới
đây tôi xin được phân tích mổ xẻ tách rời hai từ ra để hiểu nghĩa từng từ một
rồi lại ghép vào với nhau qua từ điển Hán Nôm để chúng ta thấy khi nào ta cần
dùng từ “Hoang hoải” và dùng thế nào để diễn đạt được tâm trạng của mình trong
tác phẩm để khỏi sáo rỗng, hoặc độc giả không biết mình biểu cảm cái gì:
肓 塃 荒 (Hoang): Chửa hoang; hoang vắng, hoang
vu; huênh hoang
謊 (Hoang): hoang mang, vô định, hoang tưởng, mất
bản lĩnh.
坏 壞
(Bải hoải): Bải hoải, mệt mỏi, rã rời. Hai từ này ghép lại với nhau không có
trong từ điển tiếng việt, nếu ghép lại với nhau (hoang hoải) ta có thể hiểu:
-
Nhân vật ấy, con người ấy rất hoang mang và mỏi mệt, không tìm ra được giải
pháp nào hay nhất để giải quyết vấn đề cần thiết, vì tinh thần rất hoang mang,
thể xác thì bải hoải, mệt mỏi
-
Không gian ấy thật hoang vu, rộng lớn như giữa đại dương hay trong khu rừng rậm
mênh mông bao la, mơ hồ, vô định, không lối thoát. Tinh thần thì hoang mang
hoảng loạn, thể xác thì mệt mỏi bải hoải rã rời chân tay.
-
Con người ấy huênh hoang võ mồm, chém gió nhưng bên trong tinh thần thì bạc
nhược, bải hoải, mỏi mệt
- Cô
ấy vì chửa hoang nên tinh thần bất ổn nên rất hoảng loạn, bất an, cơ thể thì
suy sụp.
Tóm
lại ta định nghĩa thế nào cho đúng. Có thể là tâm trạng vừa hoang mang sợ hãi,
hoảng loạn, không bản lĩnh, hoang tưởng, vừa mệt mỏi cả tinh thần lẫn thể xác.
Hoặc là một khung cảnh vừa hoang vu, mênh mông, vô định, vừa nói đến con người
mệt mỏi rã rời không biết đi đâu về đâu.
Theo ý của riêng tôi, từ “hoang hoải” để đi đến hoàn thiện thì nó phải
là trạng ngữ chỉ trạng thái, tâm tư tình cảm của một con người. Thí dụ ta có
thể dùng: “Chiều nay tôi vô cùng hoang
hoải”. Chứ một không gian, thời gian không thể dùng được từ này như có
người đã dùng: “Chiều nay trên cánh đồng
hoang hoải” hoặc “Giữa cánh rừng
hoang hoải”, “Mênh mông hoang hoải biển chiều hôm”… hoàn toàn vô nghĩa.
Nghiêm Thản
TA HÃY LẮNG NGHE NHỮNG ÂM THANH KHI
IM LẶNG CỦA NHÀ THƠ NGHIÊM THẢN QUA THI PHẨM “KHI TA IM LẶNG”
KHI
TA IM LẶNG
Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian đang thở…
Khi ta im lặng lúc sớm mai
Tiếng chim hót trong hơn ta thấy
Những cánh hoa khẽ động trên đài
Nụ mở, khoe sắc, thả hương …
Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau đớn
Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc xanh
Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm non.
Khi ta im lặng lúc ban trưa
Tiếng võng đưa kẽo kẹt
Tiếng ồn ào chật chội
Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen...
Khi ta lặng im lúc về chiều
Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió
Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền
xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm
Tiếng mầu tím ... thủ thỉ gọi tình yêu.
Đêm
Khi ta trầm tư sâu lắng
Văng vẳng tiếng rao đứt đoạn giấc nồng
Bé bông ngủ ngon tiếng thở đều đều
Trong lều tranh dựng tạm
bác xế - lô đang mơ những chuyến hàng
Chiếc đồng hồ gõ mạnh vào thời gian
Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột
Tuột khỏi tay! Lật mình người quả phụ thở dài
Trong suốt tiếng hạt mưa rơi
thấm sâu vào đất sâu nứt nẻ
Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi đá
chạm tới cội nguồn.
Ta hãy lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ
Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng người.
Nghiêm
Thản
Lời
bình: Xuân Hiến
Trong
sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống nơi phố phường nhiều khi những thanh âm trong
trẻo dường như bị khỏa lấp bởi vậy tâm hồn ta có lúc hụt hẫng đi vào trạng thái
trầm cảm. Vào một lúc nào đó chúng ta hãy im lặng để lắng nghe tiếng cuộc sống,
tiếng thời gian thậm chí cả tiếng nhịp tim ta đang hướng ra chân trời rộng mở
như lời RalphWaldo Emer: “Hãy im lặng và
chúng ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của thánh thần”. Nhà thơ Nghiêm
Thản cũng mang theo lời khuyên tương tự trong bài: “Khi ta im lặng”, một bài
thơ giàu tính triết lý và có chiều sâu về tầng ý nghĩa. Mở đầu là hai câu thơ
như lời đề từ giữ nhịp cho mạch thơ tuôn chảy:
“Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống
Nghe tiếng thời gianđang thở…”
Nhịp
sống và thời gian giao thoa để tạo nên bao điều kỳ diệu. Thời gian chuyển động
và sự vật cũng hiện lên rực rỡ, đầy đủ sắc màu vốn có để hồn ta trầm lắng trong
sự dịu ngọt, êm đềm. Hãy cùng tác giả “ Khi ta im lặng” đi vào thời điểm ban
mai để cảm nhận sự chuyển động không ngừng:
“Khi ta im lặng lúc sớm mai
Tiếng chim hót trong hơn ta thấy
Những cánh hoa khẽ động trên đài,
Nụ mở, khoe sắc, thả hương …
Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau
đớn
Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc
xanh
Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm
non.”
Ở
đây có những âm thanh cụ thể đó là “Tiếng
chim hót”, “tiếng hạt cựa mình”,
ngoài ra còn có những âm thanh mơ hồ như tiếng của “cánh hoa” đang nở, đang tỏa hương, rồi tiếng của cành cây, chồi
non... đang cựa quậy. Trong sự tĩnh lặng của “Sớm mai” tiếng hót của chú chim cũng “trong hơn”, có phải nội lực sau một đêm nghỉ ngơi bây giờ mới được
phát tiết ra? Hay buổi sáng trong lành nên mọi sự vật trở nên đẹp hơn trong
sáng hơn. Hoa nở vào buổi sáng cũng vậy vừa “khoe sắc” vừa “thả hương”
làm đẹp cho đời. Tác giả còn đem đến sự phát triển không ngừng từ việc “cành cây tích nhựa” để thành “chồi non”,
“lộc biếc”. Sự sống ban mai thật đẹp qua cái nhìn, sự lắng nghe và cảm nhận
bằng tâm hồn nghệ sĩ, tôi rất thích cách chuyển đổi của anh từ mùi vị của hoa
thoảng vào trong gió cũng trở thành thanh âm như mơ hồ mà rất thật. Điều này
giống với cách biểu hiện của nhà thơ Huỳnh Gia Trọng:
"Có những lúc giật mình tỉnh
giấc giữa khuya
Nằm im lặng nghe tiếng rì rào của gió
Xô những chiếc lá khẽ khàng rơi trên
lối nhỏ
Ngoài kia …
Sương lạnh trắng khung trời".
(Khúc
tình ca không tên)
Dòng
thời gian như dòng sông vẫn êm ả trôi, đến nơi thác ghềnh thì cất lên âm thanh
ồn ào, sôi động giống như thời gian ban trưa của nhà thơ Nghiêm Thản:
"Khi ta im lặng lúc ban trưa
Tiếng võng đưa kẽo kẹt,
Tiếng ồn ào chật chội,
Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen
..."
Một
điều đã trở thành quy luật, ta càng im lặng thì sự cảm nhận tiếng động càng
lớn, bởi vậy tiếng “kẽo kẹt” võng đưa
cứ như tiếng vọng tức tưởi dội vào lòng, tiếng võng còn đưa ta đến không khí oi
nồng buổi trưa ở một miền quê có lời ru dịu ngọt, có tuổi thơ êm đềm với tâm
hồn đằm sâu trong kỷ niệm. Rồi những “Tiếng
ồn ào” khiến cho không gian trở nên “chật
chội” đây là cách thể hiện mang được chiều sâu suy tưởng, còn nhiều điều
uẩn khúc chia chưa sẻ được. Người đọc không chỉ cảm nhận được tần số âm thanh
vừa hỗn độn vừa quá lớn mà còn cảm nhận không khí ngột ngạt vào thời điểm ban
trưa. Câu kết cuối khổ “Dòng đời ngược
xuôi hối hả đua chen ...” Đây là lời
nhận xét tinh tế của tác giả, với ba dấu chấm cuối câu anh muốn dành cho độc
giả suy nghĩ tiếp. Hơi thở cuộc sống bao giờ cũng là chất liệu quý giá để văn
nghệ sĩ tìm kiếm khai thác, bài thơ “Khi ta im lặng” cũng vậy trong không
gian và thời gian buổi chiều, nhà thơ Nghiêm Thản đã dồn nén sự vật, bởi vậy ta
cảm nhận được sức sống đang trào dâng và nóng hổi tính hiện thực:
"Khi ta lặng im lúc về chiều
Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió
Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền
Xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm
Tiếng mầu tím… thủ thỉ gọi tình yêu"
Năm
câu thơ chỉ có một câu “im lặng” còn
để bốn câu lên tiếng. Ta hãy lắng nghe giữa bầu trời xanh có âm thanh “Vu vơ” của tiếng sáo diều “gọi gió”. Qua từ "Vu Vơ" ta mới thấy cách sử dụng
ngôn ngữ trong thơ của tác giả rất chính xác. "Vu vơ" nghĩa là vô định, bâng quơ, không đâu, không có múc
đích, không chỉ rõ một vấn đề cụ thể nào… Chỉ là "vu vơ". Nhưng lại không "vu vơ" chút nào bởi diều và gió vốn là bạn đồng hành, muốn tấu
lên những bản nhạc của một miền quê yên ả. Vì vậy lời “gọi gió” quả là lôgic. Tuy
vậy chỉ có cái nhìn tinh tế của thi nhân mới nêu ra được. Có “Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền” dù khẽ khàng nhưng vẫn ngân vang, náo nức và
cả tiếng “gọi nhau về tổ ấm” đem đến sự mơ ước đoàn tụ ấm êm sau một ngày
bươn trải. Ta hãy lắng nghe âm thanh ngọt ngào của tình yêu lứa đôi “thủ thỉ”. Đây có lẽ là thanh âm trong
trẻo bay bổng nhất bởi đó là lời của trái tim, lời của trai gái trong khúc hoan
ca, lời của tình cảm kết tinh thành mật ngọt, yêu sao “Tiếng màu tím...” tiếng của những mối tình chung thủy.
Khi
màn đêm buông xuống những tất cả như lắng xuống. chỉ còn thấy những nốt nhạc
của thiên nhiên, và những âm thanh không mong muốn. Đó là tiếng rao “Văng vẳng” của người bán hàng trong việc
mưu sinh cơm áo, dù ai có “đứt đoạn giấc
nồng” cũng xin cảm thông với người lao động. Câu thơ đầy tính nhân văn, đầy
sự chia sẻ. Ta bắt gặp “tiếng thở đều đều”
của “Bé bông” báo hiệu giấc ngủ ngon,
sâu của một sinh linh bé nhỏ. Người lao động như “Bác Xế- lô “ cũng đang có những giấc mơ đẹp: Có nhiều chuyến hàng
để tăng thêm thu nhập, đó là giấc mơ bình dị nhưng vô cùng cao cả, đúng như lời
Dale Camegie nói : “Cuộc sống làm bạn
buồn chán ư? Hãy lao vào công việc bạn tin tưởng bằng tất cả trái tim, sống vì
nó, chết vì nó, và bạn sẽ tìm thấy thứ hạnh phúc tưởng chừng như không bao giờ
đạt được”. Trong đêm khuya ngoài tiếng “thở
dài”của người quả phụ tác giả còn sử dụng hình ảnh “lật mình” hai yếu tố kết hợp lại tạo ra nỗi buồn khôn nguôi, sự cô
đơn, trăn trở… Đặc biệt cụm từ “Tuột khỏi tay!” được đảo lên đặt ở vị trí đầu để nhấn mạnh ý:
Hạnh phúc đã cách xa tầm tay người thiếu phụ và đó là nguyên nhân của sự trằn
trọc khó ngủ cùng với tiếng thở dài hòa vào lời ca buồn “Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột”. Ta hãy lắng nghe “hạt mưa rơi”, “trong suốt”, đây có phải giọt mưa của đất trời hay giọt tâm tình mà
thi nhân đang hoài vọng để “Thấm sâu vào
đất nứt nẻ”. Câu thơ đầy tính chia sẻ. Đọc đến đây tôi chợt nhớ đến bài thơ
“Giọt nhớ” của nữ thi sĩ Hạ Uyên Chi có đoạn:
"Nghe rất nhẹ mùi thơm nồng
của đất
Thoảng dịu dàng khi mưa đổ vai anh
Giọt mưa tuôn run rẩy đọng lá cành
Lung linh chợt vỡ òa trong tia nắng"
“Hạt mưa rơi” của Nghiêm Thản hay “hạt mưa đổ” của Uyên Chi rất đẹp lấp
lánh như những vì sao mà ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, đúng như lời của George
Sand: “Thiên hướng của người nghệ sĩ là
đưa ánh sáng vào trái tim con người”. Trong màn đêm tĩnh lặng ta nghe được:
"Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi
đá
chạm tới cội nguồn"
Hai
câu thơ giàu tính hiện thực nhưng mang được màu sắc của văn học nghệ thuật. Tác
giả như sợ chiếc lá rơi thôi cũng đụng đến mồ mả đất cát, đụng đến tổ tiên ông
bà ông vải, là những anh linh của tổ tiên đang yên giấc ngàn thu. Người đọc có
thể nhìn sự vật đa chiều, tác giả đã làm được điều mà một triết gia cho rằng: “Không có thi nhân, không có nghệ sĩ, con
người sớm chán ngấy sự đơn điệu của tự nhiên” Ba câu thơ cuối vượt lên trên
lời khuyên, đặt ra một vấn đề mới:
"Ta hãy lặng im, lắng nghe
nhịp sống
Nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ
Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng
người".
Đây
là lối kết mở, đưa mọi người tới những triết lý giản dị mà sâu sắc, hãy lắng
nghe đồng loại để hiểu sâu rộng hơn cuộc sống, để rồi ta khỏi phải nuối tiếc
khi thời gian đã trôi vào quá khứ. “Lặng
yên ta sẽ nghe rõ tiếng người”, câu thơ vô cùng ám ảnh cho người đọc, như
bắt người đọc phải lặng yên mà nghĩ ngẫm. Bởi nếu không lặng yên, không nghe rõ
được tiếng người thì là tiếng gì? Câu thơ mang đầy tính triết luận, bởi tiếng
nói của con người là tiếng nói của nhân loại, mang đầy màu sắc của cuộc sống.
Bài thơ “Khi ta im lặng” thuộc dòng thơ triết
luận, từ điểm sáng im lặng để ta nghe, ta thấy bao điều trong cuộc sống giống
như một lăng kính hội tụ muôn màu lấp lánh. Được viết theo thể tự do, không chú
trọng nhiều đến hiệp vần nhưng bài thơ vẫn mượt mà bay bổng, giai điệu uyển chuyển
theo thời gian không gian của bài thơ. Có lẽ đây là khởi sự từ tiếng nói tâm
hồn của một thi nhân có nhiều vốn sống, đã từng bươn trái, đã từng gai góc. Bài
thơ tuy hơi dài nhưng không hề dàn trải, bố cục rất mạch lạc, những âm thanh
được thoát khi im lặng từ sớm, trưa, chiều, tối rõ ràng. Bài thơ còn là sự chia
sẻ cùng độc giả
Bạn
bè xa gần rất mừng cho thi nhân Nghiêm Thản, anh viết khỏe thơ thấm đẫm chất lý
trí, biện luận, giàu tính hiện thực, cách dùng ngôn ngữ rất đời thường dễ hiểu
như muốn gửi những thông điệp của mình để cùng chia sẻ với bạn đọc. Nhưng vẫn
giữ được sự lãng mạn từ trái tim đa sầu, đa cảm. Gần đây tác giả có nhiều tìm
tòi sáng tạo phát hiện nhiều tứ thơ độc đáo. Mong anh không ngừng phát huy khả
năng đó.
Hà Nội tháng 8/2014
Xuân Hiến
CHÍN VÍA CỦA NGƯỜI PHỤ
NỮ HAY NHỮNG MẢNH ĐỜI KHÔNG MAY MẮN TRONG TẬP THƠ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” CỦA MINH
HIỀN
Đây là tập thơ thứ hai sau tập “Tháng ba”của Minh Hiền Với tập thơ
đầu tay chị viết sâu nặng về tình cảm gia đình về cha về mẹ, về quê hương nơi
chôn nhau cắt rốn của mình, thì tập thơ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” bút pháp của tác
giả lại như một ống kính tiềm năng, nhìn ra xã hội, nhìn về quê hương đất nước,
nhìn tới biển đảo, và nhất là nhìn xuyên thấu hết tất cả những góc cạnh cuộc đời của những người phụ nữ phải âm thầm
cam chịu đau khổ để dành hạnh phúc cho con cháu mình.CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG hay là
chín bậc tình yêu, và cũng là thân phận của những người phụ nữ không may mắn.
Còn
với tình tình yêu đôi lứa chị nhìn thấy cuộc đời đẹp như mơ:
“Nếu khao khát, chớ hững hờ
Vòng tay ấm áp nối bờ yêu
thương
Tím mùa giăng lối bờ sương
Khói lam lan tỏa chín phương
trời chiều”.
(Trăng cô đơn)
Chị viết như chính chị
đang yêu, một tình yêu cháy bỏng luôn nhớ đến vòng tay ấm áp bên bờ yêu thương. Tình yêu đẹp là vậy, nhưng đôi
lúc họ vẫn ngờ vực chưa hẳn tin tưởng, sợ như sắp tuột khỏi tay nhau, và họ nói
với nhau những lời ân ái:
“Anh
biết đâu, những lúc buồn em khóc
Thổn thức trong đêm hay tiếng lòng nức nở
Em lang thang từng góc đường nhung nhớ
Nhé đừng buồn, không một phía đâu anh”.
(Không phải một phía)
“Không phải một phía” đồng nghĩa với từ
hai phía, mặc dù một trong hai phía yêu nhau mà không nói nên câu, không nói
được thành lời. Đó cũng là một trong tứ đức (Công, dung, ngôn, hạnh ) của người phụ nữ Việt nam, của người Á Đông.
Yêu thì rất yêu nhưng nói được lời yêu không dễ chút nào. Thơ của chị viết như
nó hộ những người đang yêu, chị hóa thân vào người đang yêu để nói những lời
yêu như hờn như trách:
“Anh đổi màu em, bằng bẩy sắc cầu vồng
Vô tình thôi, nụ cười em biến mất
Tuột nhau rồi, tím chẳng tròn trong mắt
Tím vẫn là màu tím của riêng em”.
(Mầu tím riêng em)
Có lẽ tác giả là chuyên gia của tình yêu, nên thơ của chị mới mượt mà êm
ái như đánh thức con tim. Và không ít người “lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu”, để rồi hối tiếc cuộc đời mình,
để rồi ‘quá nửa cuộc đời vẫn chửa biết
yêu”. Nhưng viết về những cuộc tình không trọn vẹn thì ống kính của chị như
thấu hiểu được lòng người, xót xa cho chị em phụ nữ như những giọt mưa sa, như
những con đò, như “chín ngọn gió đồng”
mộc mạc chân chất quê mùa:
“Đò không ai bỏ bến sông
Nhạc tre rót khúc thinh không
vào lòng
Vàng hoe chín ngọn gió đồng
Thương con đò nhỡ cứ chòng
vòng trôi”.
(Đò không)
Bài
thơ “Lệch” là những câu thơ tài hoa,
tác giả đã khắc họa nên một cuộc tình không cân xứng, một cuộc tình không trọn vẹn:
“Sợ rằng đêm vẫn khoác
đen
Sợ ngày nắng rát để duyên cạn
mùa
Sợ mưa bong bóng cứ đùa
Sợ giông hờn gió cứ ùa vào
tôi
Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho
bằng”.
(Lệch)
Một khi tình yêu không
còn thấy những tín hiệu đồng điệu nữa, thì làm sao mà dung hòa được với nhau,
đi tìm xuôi thì toàn thấy ngược, muốn lên cao thì toàn thấy thấp, chỉ thấy
những bi đát trong cuộc đời. Họ sợ cuộc đời cứ tối tăm mãi, họ sợ những cơn bão
lòng cứ vô tình ập đến, bởi hai người “như
đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Cũng là tình yêu, nhưng giữa tình cảm lứa
đôi và tình cảm vợ chồng khác nhau nhiều lắm. Là tình yêu chưa đến hôn nhân họ
có thể trút bỏ tất cả cho nhẹ lòng, nhưng đã là vợ chồng thì không dễ dàng gì,
cố sống được với nhau cũng chỉ là cái vỏ bọc của tình yêu
“Còn một chiếc ảnh là chung
Tôi đem cất giữ nhớ nhung bào
mòn
Ấy là cái lúc còn son
Tươi vui hồng đỏ đẹp giòn
tình ta”.
(Có - không)
Viết về những cuộc tình éo le ngang trái không trọn vẹn, nhà thơ Minh
Hiền cứ như người trong cuộc, “đi thì cũng dở ở không xong”, còn có bao
nhiêu điều dàng buộc. Chị cảm thông và xót xa cho những người phụ nữ lỡ bước sa
chân phải âm thầm gánh chịu bao nhiêu đau khổ về mình để rồi:
“Cạn khô nước mắt thu rồi
Em ngồi đếm đoạn một thời ấy…
xanh
Rậm rì mấy đám cỏ tranh
Vênh vang quăng quật một
nhành hoa lan
Em
ngồi đếm cái đa đoan
Thẳng lưng mà cõng trái ngang
cuộc đời”.
(Cuộc đời)
Những người phụ nữ kia đã khóc hết nước mắt rồi. Có con chim nào muốn
giam hãm mãi trong lồng, có con người nào họ muốn quanh quất trong bốn bức
tường, dù đó là lầu son gác tía. Tất cả đều muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
mà tập tục lễ giáo phong kiến còn để lại, gieo vào đầu họ; để cuộc đời họ phải
gánh chịu:
“Lẻ chiều rong ruổi phù vân
Bốn bề gió nát vũ vần
về đâu?
Vượt rào lại sợ sông sâu
Buồn cùng với nhớ thi
nhau cồn cào
(Vượt rào)
Nhưng số phận thật trớ trêu: “Em
muốn sống một chút thảnh thơi / Bởi đã đi gần hết quãng đời còn lại / Người lạc hồn sẽ lỡ lầm mãi mãi / Sẽ gánh cả
đời tê tái nỗi đau”. (Vỏ bọc). Lời thơ của chị như muốn chia sẻ nỗi
niềm đầy vơi với những người phụ nữ ấy. Chị dùng ngòi bút của mình phê phán
những ông chồng vô trách nhiệm với gia đình với vợ với con, lẽ ra họ phải biết
bổn phận làm chồng và có trách nhiệm với con cái. Thế nhưng:
“Vợ
mình ông vứt một bên
Mải say trong tiếng nhạc nền
véo von
Người tình không đáng tuổi con
Huếnh hoang bán cả lúa non vì
nàng”.
(Ông bạn già)
Là một văn nghệ sĩ Minh Hiền thấy gì viết lấy, thơ của chị như những
trang bút ký, chị ghi lại những gì trong xã hội, chị buồn lòng với những em gái
chân chất quê mùa: “Em đâu có phải chân
dài / Một thời lội ruộng, vàng hoe da màu (Lầm lỡ) thế
mà vẫn đua nhau lên tỉnh hòng mong được cuộc sống an nhàn mát mặt hơn, nhưng có
ngờ đâu:
“Phố phường chật ních,lỏng lơi
Có nhà làm việc có nơi kiếm tiền
Làng vơi đi những lời nguyền
Bầu ơi! Bí rợ, nợ duyên hỡi đời”.
(Lên tỉnh)
Trong phố phường chật chội chị nhìn thấy hết đủ mọi mọi thành phần, với
những người bán than lấm lem, lam lũ ngòi bút của chị đầy lòng nhân ái như muốn
chia sẻ nỗi vất vả trong cuộc sống mưu sinh:
“Than hai sọt cao quá đầu
Cái đen cứ bám dãi dầu đời anh
Nhào
nặn suốt cả năm canh
Mồ hôi đen đúa, quẩn quanh cơ cầu”.
(Người bán than)
Minh Hiền với tấm lòng nhân ái, nhân hậu, chị cảm thông và
thấy thương những người phải lao động cực nhọc để kiếm sống, mưu sinh. Trong
những lúc mủi lòng ấy chị lại nhớ tới những người mẹ suốt đời ở vậy tần tảo
nuôi con:
“Trời
mưa bong bóng phập phồng
Mẹ chẳng lấy
chồng, ở vậy nuôi con
Tháng năm lận đận héo mòn
Mẹ ơi! Giấu mãi dáng son đâu
rồi”.
(Dáng
mẹ)
Trong xã hội không ít những người mẹ đã hy sinh cuộc đời mình để nuôi
con, ngòi bút của tác giả đã ghi lại tất cả những gì chị nhìn thấy nghe được.
Rồi chị ngậm ngùi nhớ tới mẹ mình, chị cố đi tìm lại dấu tích xưa, người đã
mang nặng đẻ đau sinh thành ra mình:
“Con
về đây tìm lại dấu tích
Tháng ngày chất nặng kỷ
niệm xưa
Và con đếm thời gian
Một thoáng thôi!
Mấy mươi năm... Xa mẹ”.
(Tìm lại dấu tích)
Nhớ tới mẹ, là chị lại nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, có
bao nhiêu tình cảm vơi đầy:
“Giếng làng thôn nữ múc trăng
Sông Hào nước
sạch, thay bằng giếng bơm
Đường quê vấn vít rạ rơm
Cầu Tây, hoa trái vẫn thơm đôi bờ”.
(Cầu Tây)
Có lẽ thể thơ lục bát là thế mạnh của Minh Hiền, chị viết cho quê hương
là vậy, còn với các con lại luôn tự hào nay đã thành đạt, chị lại gieo vào lòng
các con những vần thơ lục bát ngọt ngào để động viên các con:
“Gắng công học hỏi nên người
Lao tâm khổ tứ đầy vơi trăm
bề
Giỏi lý thuyết, giỏi tay nghề
Vẫn chân chất vẫn người quê
thật thà”.
(Chúc mừng con)
Là người giầu tình cảm, nên chị mến những người lao động vất vả, chị
thương cha nhớ mẹ, quý con quý cháu, thân thiện với bạn bè, yêu quê hương đất
nước. Tâm hồn Minh Hiền như trải
rộng ra, trước cảnh đẹp của núi rừng làm chị bâng khuâng xao xuyến:
“Em ngỡ ngàng
đứng dưới ngàn cây
Tiếng chim ríu ran, nắng đùa trong kẽ lá
Rừng nguyên sơ, một bên là vách đá
Chợt thấy lòng mình nhẹ bẫng gió đưa”.
(Đến với rừng)
Yêu quê hương đất nước bao nhiêu chị càng nhớ tới công ơn của Đảng, Bác
Hồ kính yêu cùng các bậc lão thành cách mạng bấy nhiêu. Với chiến thắng lẫy
lừng Điện Biên và Đại tướng Võ Nguyên Giáp chị viết:
“Mang
mũ sao về quê mẹ bình yên
Mắt dõi
trông từng làn sóng biển
Hồn còn hướng về
Điện Biên tha thiết
Lòng đất Vũng Chùa, Người đâu dễ ngủ yên”.
(Ký ức Điện Biên)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và “chín
năm kháng chiến trường kì” đã “làm
nên một Điện Biên”. Tác giả cùng cả nước rất biết ơn những người lính đã
từng trèo đèo, lội suối, khoét núi ngủ hầm, mưa dầm gió bấc, không sợ gian nguy
khó khăn khổ ải. Đi qua một góc phố cổ giữa lòng Thủ Đô Hà Nội nhìn thấy cây
rau tàu bay, chị lại nhớ tới các chiến sĩ Trường Sơn:
“Dưới
chân tường cây chửa ra hoa
Lá biếc xanh làm nên thời hoa đỏ
Rừng Trường Sơn một đêm trăng tỏ
Kí ức hiện về còn đó một bài ca”.
(Rau tau bay)
Đất nước đã hoàn toàn thống nhất, nhiệm vụ của mỗi người dân, mỗi người
lính vẫn còn nặng nề, chúng ta vừa xây dựng đất nước vừa giữ vững những vùng
biên cương hải đảo, bảo vệ chủ quyền của đất nước. Với tình yêu của tuổi trẻ
đan xen quện vào với tình yêu đất nước chị viết:
“Tháng
sáu này nhớ em đến diết da
Hãy yên lòng, dõi theo anh canh đảo
Sự tham lam sẽ là điều mờ ảo
Lịch sử ngàn năm, đã khẳng định chủ quyền”
(Nơi đảo xa)
Tập thơ CHÍN NHỌN GIÓ ĐỒNG nhà thơ Minh Hiền qua thấu kính của mình,
dường như chị đã thấy được “chín vía”của
người phụ nữ, khi đầy khi vơi, khi hao khi gầy. Góc nhìn của chị thông qua
những vần thơ khi ngọt ngào êm dịu, khi da diết yêu thương, lúc dẵn vặt trách
than, lúc thương lúc nhớ. Để chúng ta hiểu thêm về tình cảm của chị với con
người, với thiên nhiên, với xã hội...
Nghiêm Thản
NHỮNG TÌNH CẢM CHÂN CHẤT, ĐẬM SẮC MÀU DÂN CA LÀ NHỮNG TRANG NHẬT KÝ VIẾT
BẰNG THƠ TRONG TẬP THƠ “TÌNH THU” CỦA ĐỖ ĐỨC NĂM
Có lẽ tôi là người may mắn hơn cả,
được nhà thơ Đỗ Đức Năm tặng cho tập bản thảo tập thơ “Tình thu”. Đây là tập thơ thứ 2 sau tập thơ “Dáng chiều” của anh,
đang chuẩn bị xuất bản, cả hai tập chủ đề chính để anh đặt tên tập thơ đều mang
một màu sắc của cái tuổi đã xế chiều nhưng sức sống còn đang đầy nghị lực. Anh
nguyên là giáo viên dạy toán nhưng tâm hồn lại đầy chất lãng mạn, có tâm có đức
nên anh đã len lỏi đi vào từng câu chữ của thi ca. Cái chất dân ca từ lời ru
của mẹ, từ tiếng trống chèo, đến các câu hò điệu ví… Đã ngấm sâu vào máu thịt
anh, để tâm hồn anh gửi cả vào thơ. Hiện anh đang là chủ nhiệm CLB thơ lục bát
Phú thọ, hội viên HVHNT Lâm Thao. Anh đã có rất nhiều thi phẩm được đăng rải
rác trên các báo của địa phương và trung ương. Anh là một người con luôn gắn bó
với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi có mồ mả Tổ tiên ông bà ông
vải, có cha có mẹ, những người thân, và biết bao những kỷ niệm thời ấu thơ, nơi
có chợ quê thanh bình yên ả dù chỉ “Dăm
người bán, vài người mua / Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng” “Không nói thách, chỉ một câu / Người mua
người bán gặp nhau hài lòng” (Chợ
quê). Dù đi đâu về đâu anh vẫn nhớ về nơi quê cha đất Tổ có chiều
dài 4000 năm lịch sử mà anh và cả nước tự hào:
“Tình người đất Tổ thân thương
Mỗi lần gặp mặt vấn
vương cả đời
Chè xanh xanh ngát bên đồi
Cọ xòe ô thắm che người phương xa.”
(Tình người đất Tổ)
Với quê hương bao giờ cũng là niềm tự hào của
mỗi người dân Việt nam. Anh là người con của đất Lâm Thao Phú thọ nơi có vua
Hùng dựng nước, và giữ nước, nên anh sẵn có dòng máu Lạc Hồng, anh đã viết
những vần thơ đầy lòng yêu nước với niềm tin phơi phới:
“Mùa xuân anh lên đường nhập ngũ
Cùng trang lứa bao điều nhắn nhủ
Anh vững tâm súng trắc trong tay
Bảo vệ quê hương đất nước này”
(Tiễn anh lên đường nhập ngũ)
Anh không nói cho riêng anh, anh nói
chung cho mỗ con người trong mọi thời đại, chí làm trai không bao giờ nợ nước,
thân làm gái vẫn một dạ sắt son. Con người dân đất Việt là vậy. Anh đã viết
những vần thơ trung với nước, với cha mẹ anh càng nặng lòng hơn, anh khóc bằng thơ: "Cha mẹ ơi! Thấu lòng con / Có nghe con
nấc khóc mòn giấc đêm” (Mẹ). Là người con
hiếu thảo sao quên được công ơn cha mẹ, suốt đời tần tảo úp mặt xuống đất, bán
lưng cho trời, những vần thơ anh viết như khơi dậy tình mẫu tử:
“Lo cho con được đủ đầy
Mẹ manh áo mỏng chất đầy tình thương
Chỉ còn da bọc lấy xương
Bao nhiêu tươi tốt mẹ nhường phần con.”
(Mẹ)
Với công cha nghĩa mẹ biết viết sao
cho đủ đầy, đã có hàng vạn vạn bài thơ viết về cha mẹ, mỗi người chỉ một bài
thôi, nếu đặt lên bàn cân có thể nặng tới hàng tấn, nói vui nếu đổ có thể đè
chết người. Điều đó đã minh chứng cho lòng hiếu thảo của tác giả đối với cha
mẹ. Nhà thơ Đỗ Đức Năm viết không ít những bài thơ như thế. Từ những bài Vu lan
báo hiếu, Mẹ, Vần thơ dâng mẹ, đến những bài Ngôi nhà, Vu lan nhớ cha mẹ, Quà
con… Đó là những vần thơ anh viết để kính dâng cha mẹ, còn tình nghĩa vợ chồng
thì sao? Chắc một tâm hồn thi sĩ như anh không phải đắn đo câu: “Bên tình bên
hiếu bên nào nặng hơn”. Anh càng kính cha kính mẹ bao nhiêu thì anh lại yêu,
lại thương vợ bấy nhiêu, là phụ nữ, là người vợ ai không thích, ai không mát
lòng hả dạ, ai không thấy hạnh phúc hơn khi nghe những vần thơ mượt mà như thế
này khi anh viết tặng vợ nhân này lễ Quốc tế phụ nữ:
“Ta dắt tay nhau đi giữa dòng đời
Thăng trầm nhiều lắm em ơi!
Mỗi lúc vui, niềm vui nhân gấp bội
Và khi buồn ta chia sẻ cùng nhau!”
(Thơ
tặng vợ nhân ngày 8.3)
Thật hạnh phúc trong tình cảm vợ chồng khi cùng “dắt tay nhau đi giữa dòng đời” cùng
chia sẻ những đầy vơi, cùng chung một túp lều lý tưởng, buồn vui có nhau. Thơ
anh đầy tính nhân văn, vợ chồng anh hạnh phúc là vậy, nhưng không thể ngậm ngùi
khi vợ chồng bạn mình phải xa nhau để mưu sinh trong cuộc sống:
“Em đi anh nhớ anh mong
Vầng trăng khuyết lạnh ngóng trông xứ người
Em đi tắt cả tiếng cười
Đường xưa đâu dấu chân người lại qua.”
(Em Đi)
Có lẽ tác giả
là con người đa sầu đa cảm, nên thơ anh đầy tình cảm, đầy nhựa sống. Anh là
giáo viên dậy môn tự nhiên, mà tình cảm thày trò của anh dạt dào, đằm thắm “Hai lăm năm đã trôi qua / Tình thày trò vẫn mặn mà như xưa” để rồi:
“Gặp nhau giọt lệ rưng rưng
Bao điều muốn nói ngập ngừng trong ta...
Đời vui rạng rỡ như hoa
Bao nhiêu kỷ niệm vỡ oà con tim.”
(Tình Thầy trò)
Con người anh là
vậy, thơ anh là vậy. Anh phải là người giáo viên yêu nghề lắm, yêu học sinh
lắm, nên anh mới viết được những vần thơ gan ruột như thế, anh đã gửi tất cả
tâm huyết của mình vào từng câu chữ:
“Thanh tao chẳng mộng sang giầu
Oằn vai gánh chữ nặng sâu nghĩa tình
Nghiệp đời gắn với học sinh
Chữ TÂM chữ ĐỨC nặng tình nước non”.
(Thày)
Đỗ Đức Năm anh là con người trung nghĩa trung tình, có hiếu với mẹ cha,
thiết tha trìu mến yêu quí học trò, dạt dào nồng mặn với bạn bè, nên khi gặp
lại bạn đồng môn anh đã ghi lại tình cảm của mình bằng nhưng câu lục bát ngọt
ngào:“Trao nhau kỷ vật làm tin / Mấy khi
có dịp ta tìm về nhau / Cùng ôn kỷ niệm ban đầu / Dồn vào ký ức khắc sâu cuộc
đời!” (gặp lại đồng môn). Anh
còn là một con người luôn yêu thiên nhiên hoa lá cỏ cây, cảnh vật nên anh đã
viết cả một chùm thơ mùa thu đầy thi vị cuộc đời:
“Thu về sen lại chia tay
Ai ngồi khắc khoải nhớ ngày
chia xa.
(Thu)
Thơ anh viết về mùa thu nhưng lại
liên tưởng đến con người, vũ trụ chuyển vần hết hạ sang thu, đông tàn rồi lại
sang xuân. Cũng như con người tan hợp, hợp tan, câu thơ ảo mà thật. Anh là
người có tâm hồn lãng mạn nên không tránh khỏi được ý tưởng giao du khắp mọi
miền, thơ của anh như một trang nhật ký, anh đã ghi lại những kỷ niệm của mình
qua mỗi chuyến đi, khi đến Vũng Tàu anh như trẻ lại khi gặp bạn bè:
“Vũng
Tầu ơi! Anh Đến rồi
Gặp em vui với bao người xung
quanh
Sóng chiều giữa biển trong xanh
Ngọt ngào em đã đón anh nồng
nàn.”
Dấu chân anh như một bước chân lãng tử,
anh đi khắp mọi miền đất nước từ bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà nẵng mến yêu đến
Bà nà nơi bồng lai tiên cảnh, rồi tới thành phố Đà lạt ngàn hoa đua nở, các
vùng biển, anh không quên
ghi lại những kỷ niệm của mình:
“Bất ngờ trời đất mở ra
Lạc vào biển cả bao la chưa
từng
Một đời quen với núi rừng
Gặp nhau bãi biển như chừng khó
tin.”
Thơ của đỗ Đức Năm viết đa dạng về thể loại từ thơ tự do đến thơ đến thơ
đường luật nhưng anh vẫn có thế mạnh về thơ lục bát. Hầu như tất cả thơ anh đều
viết theo chiều mặt phẳng, dễ hiểu dễ đi vào lòng người, tình cảm chân chất,
đậm màu sắc dân ca, ngôn ngữ không hoa mỹ nhưng gây nhiều ám ảnh nên dễ cảm hoá
độc giả. Tác giả còn nhiều hứa hẹn với độc giả. Xin chúc mừng anh.
Nghiêm Thản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét