Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2020

 

NGHIÊM THẢN

 

Thư từ biển đảo

                                     và

       lời bình

                 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

 

HÀ NỘI 2019


 

Phần1

            thơ

 

     

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THƯ TỪ BIỂN ĐẢO

 

Gom hết lửa lòng để đốt cháy tình yêu

Sống giữa đại dương mà ta vẫn khát

Một bát canh chua, chùm sấu non lúc lỉu

Hà Nội ơi! Ngàn năm văn hiến đất Thăng Long.

 

Đây Trường Sa gửi nỗi nhớ vào mong

Em vẫn tự hào có anh là lính đảo

Quả bàng vuông chịu bao nhiêu giông bão

Có ai về, cho ta gửi mặn tới người yêu.

 

Giữa nhà giàn anh mơ những buổi chiều

Cùng gỡ cỏ may dưới triền đê tắt nắng

Có gì đẹp hơn tuổi hồng trong trắng

Nụ hôn dài lẫn nước mắt tiễn anh đi.

 

Em có mong ngày ấy - lễ vu qui

Hai đứa mình chắp tay cùng cầu nguyện

Biển đảo là nhà, của ta vĩnh viễn

Để chúng mình mãi mãi chẳng xa nhau.

 

 

 THƯ CHO CON

 

      Mẹ thương con nỗi thương cha

Khi còn giặc giã vắng nhà Tết mong

      Khi mẹ - lúa ấp đòng đòng

Vì dân nợ nước bằng lòng xa nhau.

 

      Bây giờ sương điểm mái đầu

Lại mong có một nàng dâu thảo hiền

      Con đi giữ đảo triền miên

Có nghe tiếng vọng đất liền ầu ơ…

 

      Nhớ con mẹ vẫn hằng mơ

Tết này sum họp mẹ chờ mua cau

      Nhà mình sẵn có giàn trầu

Dậu mồng tơi vẫn xanh mầu tươi non.

 

      Vai gầy mẹ đã mỏi mòn

Vành nôi vẫn ngọt, vẫn tròn lời ru

      Nắng lên tan hết sương mù

Trường Sa mẹ thấy… Cho dù xa khơi.

 

                              

MÙA ĐÔNG

           ĐI QUA

 

Sương mù thôi cản lối

Rét đậm đã đi qua

Mây vỡ ra - nắng ấm

Chợ đủ mầu sắc hoa.

 

Sá cày chờ đổ ải

Vạt mạ đã xanh rờn

Cúc tần vàng bờ dậu

Én nghiêng chao mây vờn.

 

Chị cả ngồi đãi đỗ

Mẹ đang rửa lá dong

Đàn ong

Rưng rưng bàn thờ tổ

Ánh đèn nến lung linh

Nét rồng bay phượng múa

Ông nội viết chữ Bình ().

 

Bố từ đảo Trường Sa

Năm nay về vui Tết 

Đây chính là món qùa 

Đẩy mùa đông đi qua.

 

 

SÓNG BIỂN

 

Khi bão tố, sóng gồng mình chống đỡ

Lúc nhớ thuyền, sóng dào dạt gọi bờ thương

Nơi đất liền, anh biết em nín lặng

Đảo xa khơi, áo lính bạc gió sương.

 

Biển trong xanh gió trời lồng lộng

Biển của ta, trời đất của chúng ta

Từng đoàn thuyền trở về ăm ắp cá

Hả hê sao, những con sóng hiền hoà.

 

Phía trời Bắc mây sầm sì kéo tới

Trời đất đổi thay những con sóng đỏ ngàu

Giàn khoan lớn cắm sâu vào lòng biển

Bị xâm phạm chủ quyền, con sóng quặn đau.


Không thể chiến tranh, chúng ta đòi công lý

Lịch sử ngàn năm còn dấu ấn địa danh

Bỏ hận nhỏ, để rồi mưu việc lớn

Lòng kiên trung, đại đoàn kết tất thành.

 

Dòng máu Lạc Hồng sử xanh còn đó

Con cháu Thoát Hoan, chắc nhớ mãi ống đồng

Bàn cờ tướng còn nhiều thế trận

Lớp lớp sóng dồn, theo nhịp bước cha ông.

 

 

CHỜ THƯ ANH

 

Bờ vai gầy vẫn còn nồng hơi ấm

Của những ngày hai đứa bên nhau

Vòng tay anh ghì em xiết chặt

Tình yêu lên ngôi, đang nhiệm sắc mầu.

 

Em vẫn đợi mùa đông trở lại

Nhen ngọn lửa lòng sưởi ấm cho nhau

Nơi đảo xa truyền thông không thể tới

Cánh nhạn hồng, làm cầu nối bờ vui.

 

Có những lúc em một mình lầm lũi

Chờ thư anh, lại thấy cô đơn

Nghe cơn bão đi qua vùng biển đảo

Thấy xao lòng, lo lắng nhiều hơn.

 

Gió biển mặn, và nhiều cát bụi

Anh đang thừa, xin gửi đỡ cho em

Nơi đất liền như người có lỗi

Thư lần này em gửi cả nụ hôn.

 

 

TẾT VẮNG ANH

 

Thế là lại thêm một mùa Tết nữa

Anh vắng nhà tất cả ngóng trông

Nồi bánh chưng em cời thêm lửa

Con ngây thơ khen má mẹ hồng.

 

Bàn thờ Tổ vẫn lung linh đèn nến

Em chắp tay cầu phúc được an lành

Hương khói nhang cuộn tròn thành dấu hỏi

Mọi người đã về sao còn thiếu vắng anh.

 

Nơi biển đảo nhạt nhòa nắng gió

Anh có nghe con hỏi bố lúc giao thừa

Anh có thấy pháo hoa tưng bừng nở

Gió lạnh se lòng, trời lất phất mưa.

 

Anh có thấy xuân ùa về gõ cửa

Nhà đầy hoa, quất lộc, đào hồng

Mâm cỗ tết em vẫn so thêm đũa

Như vẫn có anh – có hơi thở ấm nồng.

 

 

TRỞ VỀ

 

Ngan ngát hương đồng, ngan ngát quê

Hoa màu xanh mướt dưới chân đê

Sông quê uốn khúc đôi bờ cỏ

Cò trắng bay ngang rủ nhau về.

 

Sắc hồng còn thắm dưới hồ sen

Lều vó nhà ai đã lên đèn

Chớm gió heo may se se lạnh

Anh trở về đây về với em.

 

Em mộc mạc quê vợ anh quê

Cỏ may quấn quýt lối anh về

Chồng đi biền biệt bao khao khát

Anh trở về đây về với quê.

 

Này quà của mẹ quà em đây

Bao nhiê năm tháng - bấy vơi đầy

Áo mới của con này sách vở

Anh trở về đây, trở về đây.

 

 

GẶP LẠI EM GÁI QUÊ

 

Tôi bị chìm trong màu cỏ sắc áo

Đắm mình trong không khí thể thao

Tôi gào lên Việt Nam chiến thắng

Lớp lớp sóng người nghiêng ngả, ngả nghiêng.

 

Tôi ngỡ ngàng!

Thấy em bước ra trường đấu

Em cô gái thổi cơm rơm ngày ấy

không phấn son má đỏ bừng bừng

mà hôm nay mạnh mẽ thế tiến công.

 

Em cô gái hương đồng gió nội

bỗng thét vang, vọng mãi võ trường

Em cô gái tóc dài thơm hương sả

Nón quàng tay đầu ngả ngắm lúa non.

 

Quắc mắt lên em chuẩn bị ra đòn

Đòn quyết định, em là người chiến thắng

Cả võ trường rung lên sau vài giây nín lặng

Kết thúc rồi ngực lấp lánh huân chương.

 

 

HÀ NỘI VÀO ĐÔNG

 

Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

Đèn cao áp như mờ hơn một chút

Thương cây bàng một mình đứng đơn côi.

 

Dạo đường Thanh Niên em quấn thêm khăn cổ

Cái rét đầu mùa làm em nhớ đến anh

Quanh đống lửa xoè tay tìm hơi ấm

Nơi đảo xa anh có nhớ đất Hà Thành!

 

Góc phố nhỏ thoảng đưa mùi ngô nướng

Thú ăn quà người Hà Nội xưa nay

Gói lạc rang trong lòng tay âm ấm

Anh có về tìm lại chút men say.

 

Hà Nội vào đông, không an em buồn lắm

Hàng liễu bên hồ vẫn buông thả mành xanh

Em chờ anh - em chờ hơi ấm

Anh chậm về em sợ cạn mùa đông.

 

 

ĐỢI

 

Anh mơ em gọn lỏn vòng tay

Đang xiết chặt những ngày xa cách

Nghe ai hát “Nhà mình chung vách”

Anh mơ màng…Em ở bên anh.

 

Ngước nhìn trời những ánh sao xanh

Sông Ngân Hà cách xa vời vợi

Biển trùng khơi, những ngày chờ đợi

Sợi tơ trời ai thả mãi vấn vương.

 

Quen khổ rồi, anh không ngại gió sương

Câu thơ ấy, làm lòng anh đau đáu

Như tim em vẫn đang còn rỉ máu

Vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.

 

Nơi đảo xa anh nhớ em hoài

Điện thoại gọi, ngoài vùng sóng phủ

Tình trong thơ, chưa bao giờ đủ

Đợi ngày về, bốn mắt nói với nhau.

 

 

HÃY TỰ TIN

 

Có tham đâu mà sao nhiều hoài vọng

Để biển khát khao lấp mãi chẳng đầy

Đi giữa trời mưa mà sao vẫn khát

Rễ bám đất sâu, cây vẫn hao gầy.

 

Khi con chim bay khỏi lồng tù túng

Soải cánh bay nhưng vẫn sợ điều gì

Thuyết tự do, và những điều luân lý

Đừng hoang lòng bão táp sẽ đi qua.

 

Qua mỗi sân ga, đường đời ngắn lại

Bao thăng trầm và những đắng cay

Dẫu mong manh như cánh diều trước gió

Hãy yên lòng, còn có luật trả vay.

 

Ta hãy sống như muôn người đang sống

Đống tro tàn, chỉ ở kẻ dối gian

Biển bình yên nhưng cũng nhiều sóng gió

Ta hãy tự tin, hạnh phúc sẽ dâng tràn.

 

 

GIỮA MÊNH MANG BIỂN

 

Trên nhà giàn gió mặn reo lồng lộng

Giữa biển trời Tổ Quốc rộng mênh mông

Anh lại nhớ những ngày cuối tháng

Dáng hình ai in bóng nước dòng sông.

 

Quên sao được dưới ráng chiều chạng vạng

Hai đứa mình sóng bước dưới triền đê

Con sông quê đôi bờ thiêm thiếp cỏ

Đàn trâu bò rong ruổi nối đuôi về.

 

Mới sáng nay nghe tin đài báo bão

Hướng gió đi, lại vào thẳng quê nhà

Thời gian này, sợ đang mùa lúa trổ

Nơi đảo chìm mà anh thấy xót xa.

 

Sọt rau xanh thấm mồ hôi người lính

Bữa cơm chiều còn có cả hoa tươi

Đây nhà giàn, giữa mênh mang biển

Vẫn đọc thơ em, thấy mắt em cười. 

 

BIỂN VÀO ĐÊM

 

Biển vào đêm mênh mang lộng gió

Hàng phi lao vi vút điệu ru tình

Sóng nhớ ai mà dạt dào không ngủ

Bờ cát lặng im chờ nước thủy triều dâng.

 

Con dã tràng vẫn nhọc nhằn xe cát

Dẫu biển xóa đi vẫn giữ được thân mình

Ngoài khơi xa lấp lóa đèn câu mực

Đêm kiên trì chờ đợi cá cắn câu.

 

Nơi Trường Sa giờ này anh có ngủ?

Hay vẫn giữ trời, canh biển trong đêm

Em nhớ anh như thuyền khát biển

Sóng đừng làm đau cát mịn xô bờ.

 

Em vẫn chờ anh, em chờ đông tới

Nhen ngọn lửa hồng sưởi ấm tình yêu

Đã hai năm rồi anh chưa nghỉ phép

Mong anh về, mẹ cũng nhớ anh nhiều.

 

                             Cửa Lò - 6 – 2013

 

CHIỀU TAM ĐẢO

 

Mưa chợt đổ xuống đường phố núi

Nắng lại bừng lên chuyển tiết giao mùa

Cầu vồng bắc qua hai đỉnh núi

Mây lang thang như muốn giơn đùa.

 

Em lại nhớ tới anh nơi biển đảo

nắng gió thừa làm sạm mầu da

Em càng thương anh khi mình đầy đủ

Kỷ niệm ùa về những ký ức ngày qua.

 


VỀ HẢI PHÒNG

 

Hải Phòng ơi! Thành phổ hoa phượng đỏ

Bỏ ngỏ câu thơ, nơi cửa ngõ Thủ Đô

Bằng lăng tím không phai mầu chung thuỷ

Biển Đồ Sơn, vẫn dào dạt sóng xô.

 

Mùi ngô nướng thoảng thơm nơi phố nhỏ

Thấy đói lòng, lại nhớ bánh đa cua

Những cánh diều như đùa với gió

Nghe xa xa, văng vẳng tiếng chuông chùa.

 

Em hẹn đón anh bên đài phun nước

Đưa anh về thăm mẹ thăm cha

Bến Tam Bạc còn vương nhiều kỷ niệm

Anh muốn đi du lịch đảo Cát Bà.

 

Em đưa anh thăm công viên Hòn Dấu

Cầu Bính đây rồi, gợi lại những ước mơ

Phấn trắng bảng đen, em thích làm cô giáo

Anh là lính đảo dù xa cách vạn bờ.

 

Có phải ngày xưa sông này bị lấp

Để bây giờ dài dặc những trang thơ

Cánh phượng hồng, nhẹ rơi trên ghế đá

Tâm sự cùng nhau, nghe sóng biển vỗ bờ.

 

Qua Cầu Rào, ta ngắm dòng sông Cấm

Có cấm chi đâu, nước vẫn chảy hiền hoà

Ngọn hải đăng vẫn đêm đêm thức trọn

Hải Phòng đất lành...Đẹp lắm phải không em?

 

 

PHÚT CHIA XA

 

Trong cái rét nàng Bân còn sót lại

Mẹ cùng em và bè bạn tiễn anh đi

Trí làm trai như người mắc nợ

Nắng bừng lên ấm áp tươi hồng.

 

Em rụt rè đứng sau lưng mẹ

Trong ngập tràn sắc đỏ cờ hoa

Chiếc khăn thơm hương đồng gió nội

Dúi vào tay anh trước lúc chia xa.

 

Em thẹn thùng cứ đi đi em đợi

Mẹ và em rơm rớm hoen mi

Còn nhắc khẽ nhớ viết thư về anh nhé

Đoàn quân đi rực rỡ bóng quân kỳ.

 

Phía sau lưng biết bao bàn tay vãy

Rưng rức ngậm ngùi phải xa mẹ xa em

Cứ tin anh một ngày không xa nữa

Nhiệm vụ hoàn thành, ta sẽ cưới nhau.

 

 

 

Phần 2

Những lời bình

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“CHỢ LÀNG” -  NƠI MIỀN QUÊ YÊN Ả

 

CHỢ LÀNG

 

      Về thăm quê, ra chợ làng

Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?

      Dăm người bán, vài người mua

Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng

       Nhìn mớ rau bó vội vàng

 Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ quê

      Người bán hàng vội muốn về

Người mua cũng thế - bộn bề như nhau

      Không nói thách, chỉ một câu

Người mua người bán gặp nhau hài lòng

      Bán mua xong vội ra đồng

Chợ làng phơi cái long đong phận người …

                                        Ngày17/1/2015

                                               Đỗ Đức Năm

 

Lời bình của Nghiêm Thản

 

     Tôi không dám nói đến cả hành tinh này, mà chỉ nói đến đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta. Trải qua hàng vạn năm, với sự phát triển tiến hóa của loài người, con người đã tạo ra nơi trao đổi hàng hóa, đó chính là “chợ”. Chợ cũng chính là nơi phơi bày đầy đủ nền nếp văn hóa, kinh tế, chính trị của mỗi miền dân tộc. Chúng ta có chợ phiên, chợ quê, chợ sớm, chợ chiều… Và bây giờ hiện đại hơn ta có chợ siêu thị. Một sự tình cờ đọc trên Faecbook tôi bắt gặp bài thơ CHỢ LÀNG của tác giả Đỗ đức Năm, chỉ 12 hai câu lục bát ngọt ngào anh đã cho độc giả hiểu thêm về con người thuần Việt với tấm lòng thơm thảo, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương. Khi về nơi chôn nhau cắt rốn của mình anh đã thấy:

            “Về thăm quê, ra chợ làng
      Tinh mơ đã thấy bán hàng lạ chưa?”

     Không phải anh ngỡ ngàng trước sự tần tảo sớm khuya của bà con lối xóm, chúng ta thừa hiểu rằng ông cha ta vẫn chịu thương chịu khó là vậy. Từ “Lạ chưa” một câu hỏi tu từ được đặt vào cuối câu 8, chúng ta đừng vội cho rằng tác gỉả là người quan liêu không hiểu gì về những miền quê, mà đây lại chính là cái đòn bẩy để ta hiểu thêm về con người quê vẫn chân chất là vậy. Ai chẳng biết rằng đời sống bây giờ trên mọi miền đã khá hơn nhiều, thế mà nơi chợ quê “tinh mơ đã thấy bán hàng”, không phải vì nghèo túng mà phải đến nỗi tần tảo thức khuya dạy sớm như xưa. Với nghệ thuật viết của Đỗ đức Năm, những câu 6 được cắt nhịp 3 – 3, câu 8 được cắt nhịp 4 – 4 đã cho ta thấy không khí chợ từ dăm ba người rồi đông dần, đông dần:

            “Dăm người bán, vài người mua
      Mớ rau món tép, chào thưa dịu dàng”.

     Người quê thân thương là vậy chỉ “mớ rau món tép” thôi, mà “chào thưa dịu dàng”. Thật trân trọng và đáng quý. Câu thơ anh viết nhẹ nhàng chân thật, giọng thơ chân chất quê mùa như người quê vậy, mà chuyển tải được một vùng quê thanh bình yên ả, con người quê tình cảm thật thà chất phác, khiến độc giả quên đi cái chật chội bon chen nơi đô thị, như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:

            “Người quê mưa nắng giãi giề

      Mớ tôm mớ tép đi về có nhau”.

     Còn Nguyễn Trọng Tạo, với góc nhìn của anh, thấy cả những sản vật ngoài đồng và những người làm ra nó:

            Chợ quê gom cả hương đồng

      Chè xanh rượu bắp, khoai trồng đất pha

            Mớ rau nải chuối quả cà

      Con cua ngoài ruộng, bông hoa trong vườn”

     Từ con người quê đến sản vật quê đều mang cái sắc thái của người Việt. Qua cái nhìn của nhả thơ Hà Cừ ta thấy: “chợ quê con tép cũng gầy / Con cua, con cá dính đầy bùn tươi / Mớ rau muống, mớ mồng tơi / Quả bầu, quả bí nói lời gió sương”.Với lăng kính của Đỗ Đức Năm anh cũng cho độc giả thấy:

             Nhìn mớ rau bó vội vàng
      Không cần gọn đẹp - đây hàng chợ quê”

     Câu thơ dản dị như người nông dân, như những câu nói đời thường, mà lại rất thơ, bởi tự nó lung linh tỏa sáng, nó chuyển tải được cái lam lũ vất vả, giản dị của người quê, chỉ qua những cụm từ “vội vàng”, “ Không cần gọn đẹp” ta cũng đã nhận ra điều đó. Thơ của Đỗ Đức năm còn  nói nên được tính cách và phẩm chất của người quê:

               “Người bán hàng vội muốn về
      Người mua cũng thế - bộn bề như nhau

               Không nói thách, chỉ một câu
      Người mua người bán gặp nhau hài lòng

                            Bán mua xong vội ra đồng”

 Người quê là vậy, công việc nhà nông là thế. Lúc nào họ cũng vội vội, vàng vàng, tranh thủ làm, tranh thủ ăn, mua mua, bán bán, con con, cháu cháu, rồi con lợn con gà… Tất bật, tất tưởi. Nhưng rất thật thà, không bon chen không đố kị, không hẹp hòi chật chội. Nhà thơ Nguyễn Siêu Phàm cũng đã cho ta thấy được cái đức tính tốt đẹp ấy: “Bán thì vội bán, mua thì vội mua / Thói quê tất tả bốn mùa / gánh rau bán đứng / Trái dưa bán ngồi” Người quê suốt ngày họ quanh quất với ruộng đồng, mớ rau bó cỏ, con gà con vịt… công việc lúc nào cũng bộn bề  bận rộn “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. chỉ một câu kết thôi Đỗ Đức Năm cũng đã nói hộ người nông dân được điều đó: “Chợ làng phơi cái long đong phận người …” Phận người quê là vậy . Ở đây ta bắt gặp từ “Phơi”, phơi có nghĩa là bầy ra, phô ra trình bày cho mọi người biết. Trớ trêu thay lại là phơi cái “long đong” của con người. Đọc lướt qua ta chỉ nghĩ tác giả diễn tả cái vất vả của người nông dân, bởi câu thơ rất gần gũi với mọi người. Nhưng đây lại là một câu triết lý, chúng ta đã từng đi đến mọi miền đất nước, đến một nơi nào đó nếu chỉ vô tình thôi không đi tới chợ, thì chúng ta sẽ bị mơ hồ về nơi đó. Chính chợ là nơi “phơi” bầy những gì địa phương ấy đang có từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến nếp sống, đạo đức con người. Vậy thì câu thơ của Đỗ Đức Năm ở đây lại rất thơ.

      Với 84 từ tác giả đã chắp ghép thành 12 câu lục bát ngọt ngào đằm thắm thiết tha, ngôn ngữ trong thơ không xa lạ, rất đời thường không hoa mỹ, rất gần gũi với mọi người, bài thơ không dài, bố cục chặt chẽ, anh đã biết nén câu nén chữ để chuyển tải được cái chân chất của người quê, dễ nghe dễ thuộc nhưng lại rất thơ. Tôi nghĩ đây là cái khó của người cầm bút. Chúc anh viết được nhiều bài hay hơn nữa. 

 

                                                            Ngày 05 / 5 / 2015

                                                              Nghiêm Thản

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NỖI LÒNG NGƯỜI XA XỨ LÀ NHỮNG TÌNH CẢM SÂU ĐẬM CỦA KHÔNG VĂN ĐƯƠNG QUA THI PHẨM “NHỚ LÂM THAO”

 

NHỚ LÂM THAO

 

      Mình về có nhớ Lâm Thao

Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng

      Phù sa đỏ nước sông Hồng

Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ Tiên

      Ai lên đỉnh núi thì lên

Mải mê hoài niệm lại quên đường về

      Cỏ non xanh tít chân đê

Lững lờ mây tím đồng quê xanh rì

      Trời xanh in bóng Ba Vì

Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô

      Êm đềm nước biếc sông Lô

Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương

      Trập trùng rừng cọ đồi nương

Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng

      Nơi này chín nhớ mười mong

Mái trường ngói đỏ nhuộm hồng chân mây

      Bao năm nhớ bạn, nhớ thày

Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu

      Mơ mơ một dáng yêu kiều

Mang mang giọng nói một chiều sương giăng…

      “Chàng đi có nhớ em chăng”

“Miền quê em ngóng mảnh trăng cuối trời”

      Ôi sao lời vọng một đời

Dù đi ngàn dặm xa vời còn thương

      Tình người như sợi tơ vương

Trăm năm vẫn gắng tìm đường gửi trao…

      Mình đi có nhớ Lâm Thao

Ta đi ta nhớ cồn cào trong tim …

 

                           Khổng Văn Đương

Lời bình của Nghiêm Thản

 

     Cái trân trong đáng quý của người Việt Nam chúng ta là dù đi đâu về đâu, dù quê mình nghèo đến mấy, cũng vẫn nhớ về quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có mồ mả tổ tiên ông bà ông vải, nơi có lời ru của mẹ, có đòn roi của cha dạy dỗ mình nên người, nơi có tiếng sáo diều bay bổng tít tầng không, có ruộng đồng ấp iu ngô khoai bắp… Ăm ắp những kỷ niệm tuổi ấu thơ và những người thân yêu nhất. Với 28 câu lục bát nhà thơ Khổng Văn Đương đã giãi bày những tâm sự của mình, một người con xa xứ luôn da diết nhớ quê hương. Chỉ 2 câu đầu anh đã trải được lòng mình:

                “Mình về có nhớ Lâm Thao

          Ta về ta nhớ nôn nao trong lòng”.

     Câu thơ đậm sắc màu ca dao, có lẽ cái tố chất ca dao, cái tình quê mặn mà đã ngấm vào máu thịt anh.  Cụm từ “mình” với “ta” đã chứng minh được điều này. Anh nhớ Lâm Thao quê anh đến “nôn nao trong lòng”. “Mình” với “ta” không hẳn là tình yêu đôi lứa mà còn là những người cùng cảnh ngộ khi phải bươn chải kiếm ăn nơi xứ người. Người Việt Nam chúng ta là vậy. Đọc đến đây ta lại nhớ đến câu ca dao: “Mình về có nhớ ta chăng?/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Vậy nên tất cả những địa danh thân thương đã ùa vào thơ anh:

                “Phù sa đỏ nước sông Hồng

          Hùng thiêng, Nghĩa Lĩnh, cha Rồng, mẹ Tiên”

                “Trời xanh in bóng Ba Vì

          Xa xa lấp lánh Việt Trì Cố đô

                Êm đềm nước biếc sông Lô

          Mênh mang Tam Đảo mờ mờ khói sương”.

     Nhà thơ Giang Nam khi xa quê hương, ông  cũng đã không quên được những kỷ niệm nơi quê hương mình:

    “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường 
 Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: 
 "Ai bảo chăn trâu là khổ? " 
 Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao” 

                                                     (Quê hương  - Giang Nam)

     Những địa danh ấy, dấu chân anh đã in đậm thời ấu thơ, đã khắc ghi vào tâm trí anh, song hành cùng anh trên mọi nẻo đường Tổ Quốc:

               “Trập trùng rừng cọ đồi nương

          Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng

                Nơi này chín nhớ mười mong

          Mái trường ngói đỏ nhuộm hồng chân mây”.

     Ấn tượng sâu đậm nhất ta gặp là những dòng thơ mà Khổng Văn Đương viết về quê hương như mạch nguồn dân tộc. Dường như anh gửi vào đó cả một vốn kiến thức dân gian và khát khao cái khí quyển dân gian nghìn đời ấy.  Những khổ thơ trên tràn ngập một thế giới cổ tích ca dao. Thơ anh còn phảng phất màu sắc của Nguyễn Bính khi ta nhớ tới câu:

“Quê hương tôi có cây bầu cây nhị 
Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang... 
Có cô Tấm náu mình trong quả thị 
Có người em may túi đúng ba gang”

                             (Quê Hương - Nguyễn Bính)

      Hình như trong mỗi câu thơ đều chất chứa một thứ điển tích nào đó trên đất Lâm Thao quê anh để anh nhớ đến vậy. Cái tình người là vậy “Nửa đời phiêu dạt còn vương tơ lòng”. Đây là tâm trạng riêng anh, nhưng anh đã nói hộ nỗi lòng của những người xa quê. Anh đã biến cái “tôi” thành cái “ta” chung của mọi người. Câu thơ đã hay còn đẹp, bởi anh đã biết tận hưởng cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Anh vấn vương với những kỷ niệm vơi đầy, tình thày tình bạn:

                “Bao năm nhớ bạn, nhớ thày

          Dặm đường ly biệt còn đầy thương yêu

                Mơ mơ một dáng yêu kiều

         Mang mang giọng nói một chiều sương giăng”

     Tình thày tình bạn là vậy sao anh không khỏi vấn vương, mà còn vấn vương nhiều nữa chứ, bởi anh còn vương cả “tơ lòng” kia mà, anh “Mơ mơ một dáng yêu kiều” để rồi nghe “Mang mang giọng nói một chiều sương giăng” của tình yêu tuổi học trò. Cho nên :

                  Ôi sao lời vọng một đời

“Dù đi ngàn dặm xa vời còn thương

      Tình người như sợi tơ vương

Trăm năm vẫn gắng tìm đường gửi trao…

      Mình đi có nhớ Lâm Thao

Ta đi ta nhớ cồn cào trong tim”.

      Những dòng thơ cuối của bài thơ lại mang màu sắc lãng mạn của tình yêu tuổi học trò đã đẩy tính trữ tình lên cao trào, đó cũng là nghệ thuật của người cầm bút. Với 28 câu lục bát mượt mà đằm thắm, thiết tha, bài thơ hơi dài nhưng vẫn cuốn hút được người đọc không gây nhàm chán đó là thành công của tác giả. Xin chúc Khổng Văn Đương dồi dào cảm xúc để có nhiều tác phẩm trữ tình hay hơn nữa

 

                                                           Nghiêm Thản

    

 

TÂM TƯ CỦA MỘT NGHỆ SĨ

Qua thi phẩm gửi Gửi trời của Việt Hồng

 

GỬI TRỜI

 

      Bao năm gảy những tiếng đàn

Lặng im như chỉ trăng ngàn vờ nghe

      Người ơi! Khuất núi có về

Lắng nghe từng giọt, lời thề bấy nay

      Vuốt mòn sợi bạc trong tay

Ngọt bùi nào biết đắng cay hỡi người

      Cô đơn lại nở nụ cười

Giọt ta lẫn tiếng đàn rơi ướt mình

      Giờ đau thế thái nhân tình

Rầy sang em nỗi bất bình ngày xưa

      Anh ngồi hòa những buồn mơ

Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời.

 

                                                   Việt Hồng

 

Lời bình của Nghiêm Thản

 

     Cuộc đời của mỗi con người, ai cũng có lúc buồn lúc vui lẫn lộn, lúc thăng lúc trầm, lúc say lúc tỉnh…  Nếu là thi sĩ họ gửi cả vào thơ, là họa sĩ họ sẽ vẽ lên những bức tranh huyền diệu, là nghệ sĩ họ gửi cả tâm tư tình cảm của mình vào những phím đàn để sợi tơ đồng rung lên tiếng khoan tiếng nhặt. Thi phẩm “Gửi Trời” của Việt Hồng cũng vậy, qua ông kính của người thơ anh đã ghi lại những tình cảm của người nghệ sĩ họ rất yêu những niềm vui, cái đẹp quanh mình, nhưng họ vẫn có những nỗi buồn, những nỗi buồn ấy không muốn nói ra mà:

      “Bao năm gảy những tiếng đàn

Lặng im như chỉ trăng ngàn vờ nghe”.

     Chắc hẳn người nghệ sĩ buồn nhiều lắm, hay họ có cái gì uất ức chăng, họ lặng im, có lẽ chỉ trăng mới hiểu được tiếng tơ lòng của mình mà cũng lặng im, còn như“vờ nghe”, vậy thì biết chia sẻ cùng ai. Từ “vờ nghe” cho độc giả thấy được không gian thật tĩnh lặng, vậy ai hiểu được lòng mình đây, nghe thấy rồi mà như chưa biết. Câu thơ biểu cảm sự dằn vặt tâm can. Ở đây ta bắt gặp hình ảnh “trăng ngàn”, trăng ngàn là trăng cuối tuần hạ huyền khi sắp lặn, ánh sáng mờ mờ, huyền ảo buồn buồn, rất ăn nhập với ý thơ. Như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đây cũng là  cách dùng ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ để so sánh có sự lựa chọn vừa chính xác lại vừa làm đẹp câu thơ. Thế mới biết tình cảm của người nghệ sĩ sâu nặng biết nhường nào, cả khi người thân, và những thính giả từng nghe và hiểu tiếng đàn của mình đã khuất bóng. Người nghệ sĩ muốn gửi tâm tư tình cảm của mình qua tiếng đàn vút lên vũ trụ bao la, để thế giới bên kia nghe được, để cùng chia sẻ với lòng mình:

      “Người ơi! Khuất núi có về

Lắng nghe từng giọt, lời thề bấy nay”

     Lời thề ở đây không riêng gì như lời thề sắt son của tình đôi lứa mà nó còn chứa chất một sự hứa hẹn với nhau điều gì, dường như chưa thực hiện được, hay có cái gì đó thiếu tôn trọng nhau, coi thường nhau. Cho nên tiếng đàn mới khắc khoải “từng giọt” buồn, vẫn u uất trong lòng. Những người nghe và hiểu được tiếng đàn cùa người nghệ sĩ thì đã khuất, anh biết chia sẻ cùng ai, nhưng người nghệ sĩ vẫn chơi đàn anh chơi đến nỗi:

      “Vuốt mòn sợi bạc trong tay

Ngọt bùi nào biết đắng cay hỡi người”

     Nghe câu “vuốt mòn sợi bạc trong tay” Mới nghe ai cũng nghĩ người nghệ sĩ tuổi đã cao, anh vuốt những sợi tóc trên đầu mình mỗi khi buồn tủi, hoặc nghĩ đến nhân tình thế thái, Ở đây Việt Hồng anh đã miêu tả người nghệ sĩ chơi đàn như vuốt sợ tơ đồng đến mòn trong tay mình để chia sẻ buồn vui với mọi người. Đấy là chưa dám so sánh với nàng Kiều: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Ý thơ sâu sắc trìu tượng, đa chiều, đa dạng. Nếu ta chỉ dừng lại ý ban đầu vẫn không sai. Đó chính là nghệ thuật bút pháp của Việt Hồng. Ca dao thường nói: “ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay…”, Nhưng ở đây Việt Hồng lại viết: “ Ngọt bùi nào biết đắng cay” ý thơ ngược lại hoàn toàn. Có phải chăng trên đời này còn nhiều bất công, có những kẻ chỉ biết hưởng thụ, ăn quả mà chẳng nhớ người trồng cây, chẳng biết có bao người khổ sở gian nan, thậm chỉ phải gửi xương gửi thịt, phải hy sinh, đổ máu mới có được ngày hôm nay, họ chỉ biết nhận đâu biết cho ai cái gì. Câu thơ như chì, như nghiến. Như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:

         “Nghĩ cuộc đời nhận cho, cho nhận

          Mình đã nhận gì, những gì mình cho

          Cho và nhận có cái gì sòng phẳng

          Có kẻ nhận nhiều mà chẳng thấy cho”

     Việt Hồng anh biểu cảm những câu thơ tưởng như vô lý nhưng lại là có lý:

      “Cô đơn lại nở nụ cười

Giọt ta lẫn tiếng đàn rơi ướt mình”

     Khi con người ta đã cô đơn thì mấy ai nở được nụ cười, mà thường lặng im như những người trầm cảm. Nhưng ở đây Việt Hồng lại viết: “Cô đơn lại nở nụ cười”, phải chăng đây là tiếng cười chua chát trước thế thái nhân tình của cuộc đời, có cái gì đó thiếu sòng phẳng chăng. Sách cổ cũng có câu: “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật / Tiếu tựa thư sinh lạc đệ thi” (Khóc như thiếu nữ về nhà chồng / cười như thày khóa hỏng thi). Như Trần Tế Xương cũng đã cười:

      “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt

 Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng”.

     Vậy thì câu thơ lại hoàn toàn có lý, để những giọt lệ buồn hòa lẫn vào “tiếng đàn rơi ướt mình”. Với ngòi bút của Việt Hồng người nghệ sĩ không những đã cất lên tiếng cười chua chát, còn khóc, anh khóc thầm qua những tiếng đàn, và thấy:

      “Giờ đau thế thái nhân tình

Rầy sang em nỗi bất bình ngày xưa”

     Chắc hẳn “nỗi đau thế thái nhân tình” này đau lắm, nó đau đến tận xương tận tủy, nó như  mũi dao chích vào con tim, hằn vào da thịt để muôn đời muôn kiếp không quên, làm cho tâm hồn u uất, biết kêu ai, vậy chỉ còn có cách kêu trời, giống như những người dân tộc vùng sơn cước gửi những nỗi bất bình của mình vào những cây lêu vẽ hình con chim ngày tết, để sang một năm mới may ra các đấng thần linh còn giải cứu cho sự công bằng. Việt Hồng anh đã khắc họa nỗi đau của một con người, một nghệ sĩ, có lẽ nỗi đau này còn rầy sang cả người thân yêu nhất của mình Vậy chỉ còn có cách gửi lên trời những tiếng đàn, là những thông điệp, nó chứa chất những tâm tư tình cảm của mình những nỗi buồn vui:

       “Anh ngồi hòa những buồn mơ

Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời”.

     Đâu phải riêng người Việt Nam hay người Á Đông, mà cả hành tinh này, mỗi khi con người ta có những điều không giải cứu được họ đều kêu Trời (Trời ơi! Có thấu cho chăng ? Hoặc lạy Chúa Trời, (Xin Chúa hãy ban phước lành và cứu rỗi cho con). Câu kết người nghệ sĩ cũng như nhiều người khác muốn “Ra sông nhờ cánh cò đưa gửi trời” những thông điệp của mình tới tất cả mọi người

     Với 12 câu lục bát đôi chỗ còn phải dùng vần thông để giữ ý thơ, tự sự mà không kể nể. Nhưng vẫn giữ được giai điệu ngọt ngào da diết. Việt Hồng, anh đã cho ta thấy những nỗi đau của con người, như những thông điệp bất công của nhân tình thế thái, có những con người gần như bất lực tê liệt, chỉ biết ôm những u ất và lặng im xem con tạo xoay vần. 

                                                   Nghiêm Thản

                                              

TA HÃY XEM NỮ SĨ MINH HIỀN NGHĨ GÌ VỀ NGƯỜI CON GÁI KHI ĐI LẤY CHỒNG QUA THI PHẨM “SANG NGANG”

 

 

SANG NGANG

 

      Thế là xấp ngửa sang ngang

Thế là lã chã mưa sang nhà người

      Cau non bổ bốn ra rồi

Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm.

 

      Đài trang chín nụ tầm xuân

Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao

      Lạnh không, phận liễu má đào

Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ.

 

      Trăm sông vẫn cứ đôi bờ

Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng khơi

      Vớt câu thơ bạc đem phơi

Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều.

 

                                         Minh Hiền

 

 

Lời Bình của Nghiêm Thản

 

     Là người con gái hầu như ai cũng phải đi lấy chồng, nhưng trớ trêu thay mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Có một điều ta thường gặp “khóc như thiếu nữ lúc vu quy”, đó chính là tình cảm của người phụ nữ Việt Nam. Trong tay tôi có tới 200 bài “Sang ngang”. Mở tập thơ “Bảy tia nắng chiều” của Minh Hiền được NXB Hội nhà văn ấn hành ngày 11 / 10 2016, chạm phải bài “Sang ngang” tôi giật mình, bởi đề tài này viết thật khó, cũng như những bài thơ viết về mẹ, nếu ta thu nhặt những bài thơ như thế này, ta thử đặt lên bàn cân có lẽ tới hàng yến hàng tạ, hàng tấn, nói quá một chút nếu xếp lên có thể đè chết người. Bài “Sang ngang” của Minh Hiền có một giọng rất riêng, nói đến nỗi đau của người “sang ngang”, người đi lấy chồng cũng rất riêng:

      “Thế là sấp ngửa sang ngang

Thế là lã chã mưa sang nhà người”.

     Số phận người con gái lênh đênh như con thuyền giữa dòng sông với 12 bến nước, biết bến nào đục bến nào trong. Chọn ư? Khó lắm! không được! Bởi số phận đã an bài:

                  “chuyến này chị bước sang ngang

             Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay”.

                       (Sang ngang - Nguyễn Bính)

     Người con gái khi “sang ngang” của Minh Hiền lại như một sự ép buộc, khổ sở không thuận lòng bởi làm sao mà phải “sấp ngửa sang ngang”, làm sao mà phải khóc đến“lã chã”. Nhưng cũng không hẳn là như vậy, còn nhiều lý do khác chưa lý giải được. Đây là câu thơ hay bắt người đọc phải dừng lại mà nghĩ ngẫm, như nhà thơ Lê Nghiêm cũng đã viết:

                      “Em là con gái nhà lành  

                   Cha mẹ mất cả, cũng đành vậy thôi!”

      Đây lại là lý do cụ thể, nhưng với thơ Minh Hiền có sự cuốn hút như bắt độc giả phải bám vào câu thơ để lí giải được ý thơ, mặc dù người con gái khóc “lã chã” như “mưa sang nhà người”. Ở đây ta bắt gặp điệp từ  “thế là” chứng tỏ rằng chữ “đành” của người con gái lúc về nhà chồng, ta ngầm hiểu còn có bao nhiêu cái “đành” nữa, mà người con gái phải gánh chịu. Câu thơ mang đầy tính nhân văn, Minh Hiền xót xa và thông cảm cho những số phận người con gái phải lấy người không yêu là vậy. Đọc đến hai câu tiếp theo:

      “Cau non bổ bốn ra rồi

Trầu xanh vôi trắng gói lời lên mâm”.

      Bây giờ ta mới vỡ ra rằng người con gái khi đi lấy chồng trong thơ Minh Hiền cũng rất có giá đấy chứ, đâu phải có những người chỉ vài chai rượu nút lá chuối là xong, đâu phải như mớ rau mớ cỏ, cũng “cau non bổ bốn ra rồi” cũng “Trầu xanh vôi trắng” cũng có lời thưa gửi trịnh trọng và “gói lời lên mâm” đàng hoàng lắm chứ. Chứng tỏ “Tay bâng trầu đầu đội lễ” hẳn hoi có kém ai đâu. Chỉ hai câu thơ ta thấy được người con gái “sang ngang” của tác giả có ăn, có hỏi đàng hoàng, câu thơ đã lý giải cho từ “sấp ngửa” không phải là vội vàng mà là sự đau khổ. Đau khổ đến tột cùng thôi đành phó thác cuộc đời cho số phận. Vậy nên ta càng thấy cái hay của điệp từ “thế là”. Trong ca dao chúng ta thấy“yêu nhau cau bốn bổ ba / ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”. Đấy là nói đến tình cảm đôi lứa. nhưng trong thực tế cau to cau nhỏ, các cụ ta thường bổ “bốn” để mang ý nghĩa 4 họ đã chứng kiến đôi uyên ương đã nên vợ nên chồng. Nhưng từ “vôi trắng”“gói lời” thì rất hay. Đã đành vôi thì phải trắng, nhưng từ “vôi trắng” ở đây ta cảm thấy cuộc tình này có cái gì bạc bẽo. người ta vẫn nói:  “Bạc trắng như vôi trát tường”. Ngạn ngữ có câu:“Học ăn, học nói, học gói, học mở” thế thì câu “gói lời lên mâm” lại trở lên tuyệt vời đến long lanh của câu chữ, nó nêu lên được sự giao tiếp rất lịch sự và trịnh trọng, gia giáo lễ phép, đúng thuần phong , mỹ tục của người Việt. Vậy thì từ “gói lời” rất thơ, câu thơ ảo mà dễ hiểu.

     Người ta chưa nhìn thấy bóng vía hiện hữu nhưng ai cũng có thể cảm nhận được sự có mặt của nó bằng trực giác. Theo các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu, bóng vía là một khái niệm trong dân gian, vẫn hiện hữu trong đời sống hằng ngày. Người đời vẫn quan niệm đàn ông có 7 vía đàn bà có 9 vía. Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền muốn giới thiệu cho độc giả về nhân vật là người con gái một cách rất khéo trong thơ của mình rất đài trang khuê các:

      “Đài trang chín nụ tầm xuân

Nghìn vàng gìn giữ trong ngần gửi trao”

     Minh Hiền có lối viết khác người không “đánh bóng mạ kền” câu chữ, mà ngôn từ vẫn lung linh tỏa sáng. Chỉ cần mượn hình ảnh “chín nụ tầm xuân” độc giả cũng biết ngay đây là người con gái rất tươi trẻ, “chín nụ tầm xuân” cũng như 9 vía của người con gái, “ Cụm từ “nụ tầm xuân” ta hiểu ngay đó là một thiếu nữ, còn làm cho câu thơ lấp lánh đẹp lên. Ca dao cũng đã ca ngợi người con gái đẹp như “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” lại còn đứng sau từ “đài trang” thì chứng tỏ đây là một thiếu nữ hào hoa phong nhã, trong trắng trinh nguyên, đáng giá “nghìn vàng” được “gìn giữ” đến “trong ngần”, được nuôi dạy trong một gia đình gia giáo nề nếp, và bây giờ đã đến lúc trao thân gửi phận, rẽ sang một cuộc sống mới hoàn toàn khác lạ. Đọc đến đây tôi thầm nghĩ rằng: “Em như cây bấng lên khỏi đất / sẽ quen dần đất lạ quê anh”, và hy vọng rằng: “Vợ tôi cũng giống như tôi / lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu” (Vợ tôi – Lê Nghiêm). Hai câu lục bát tiếp theo Minh Hiền viết đã hay còn đẹp đến long lanh của ngôn từ, mang đầy màu sắc dáng dấp của Truyện Kiều, phải chăng Minh Hiền đã chắt lọc được tinh hoa của Nguyễn Du, để cái chất lục bát sáng giá hơn:“Quá thương chút nghĩa đèo bòng / Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?”. (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Tôi dám nói rằng đây là một trong những câu thơ đạt đến mức tài hoa. Thơ của Minh Hiền là vậy, chị còn dùng cách đòn bẩy như một sự kích hoạt của câu chữ, đưa người thiếu nữ lên mức đài trang khuê các để rồi độc giả phải ngậm ngùi cho câu sau:

      “Lạnh không, phận liễu má đào

Vào hang nhện - biết thế nào lưới tơ”.

                 Rõ ràng người thiếu nữ kia đã đành phải chấp nhận cái “Lạnh không, phận liễu má đào” của mình mà còn lo lắng cho số phận của mình “thế là” lại tiếp những “thế là”… Không biết những chuyện gì sẽ sảy ra. Về nhà chồng mà như “vào hang nhện”, lại còn bao nhiêu lo lắng. đi lấy chồng mà như bị xa lưới “biết thế nào lưới tơ” Ở đây tính tư tưởng giáo dục rất rõ nét. Khoan hãy nói đến từ “bình đẳng”. Nếu là giới mày râu đọc câu thơ này phải biết thương phụ nữ nhiều hơn, yêu thương vợ mình hơn, biết ơn phụ nữ nhiều hơn… Bởi chính chị em đã mang lại hạnh phúc cho gia đình cho toàn nhân loại.

                 Bốn câu kết rất logic với bài thơ từ câu đầu “Thế là sấp ngửa sang ngang” cho đến câu: “Ngàn con sóng vỗ mịt mờ trùng khơi” “Vớt câu thơ bạc đem phơi / Cong cong ngọn gió vênh nơi cuối chiều” Rất ăn nhập với nhau. Minh Hiền đã cho ta thấy một bi kịch của một người con gái đã đến tuổi xế chiều rồi mà vẫn khao khát một cuộc sống tươi đẹp, đầm ấm yêu thương, mặn mà, vẫn nuối tiếc cuộc đời. Nhưng cái đẹp đó như những câu “thơ” đẹp đấy nhưng rất “bạc” rất phũ phàng. Từ “bạc” ở đây lại rất khớp với từ “vôi trắng” ở trên, dù có níu lại “vớt” lên đem “phơi”cũng chỉ như ngọn gió “cong” “vênh”. Minh Hiền có cách viết rất ảo, rất trìu tượng nhưng dễ hiểu, láy lại ý mà không lập lại câu chữ. Xét về nghẹ thuật, thơ thì ai vớt được, nhưng lại vớt được, nhặt được, gió thì nhìn làm sao được mà bảo rằng gió cong vênh. Nhưng ta lại thấy cuộc đời nhiều lúc cong vênh, và khúc khỷu gập ghềnh, gai góc như cuộc đời nàng Kiều vậy. Ở đây tôi muốn nói những chiều thơ dễ hiểu không cần phải ý tại ngôn ngoại, mà lắng đọng, gây cảm xúc, đụng chạm đến tình cảm riêng tư của người đọc mới là bậc nhất của thơ. Còn viết một cái hiều cái khác vẫn chỉ là hay bậc thứ hai của thơ.

     Chỉ ngắn gọn trong 12 câu lục bát đằm thắm mượt mà, tài hoa Minh Hiền đã tái hiện lại một bi kịch của một số phận người con gái như hạt mưa sa. Cũng là đề tài “Sang ngang” nhưng lại rất riêng. Bố cục chặt chẽ, bốn câu đầu giới thiệu một cô gái khi đi lấy chồng, bốn câu tiếp theo nói về thân thế, thân phận người con gái ấy, và cuộc sống mới của mình khi rẽ “sang ngang”, bốn câu kết cho ta thấy đây là một bi kịch, và sự khát khao của người con gái đòi được yêu. Thơ Minh Hiền giầu hình ảnh, ngắn gọn, xúc tích, không dàn trải, đầy tính nhân văn, đã hay còn đẹp, từng câu chữ lắng đọng trong người đọc, như muốn thuộc lòng để rồi chiêm nghiêm, suy ngẫm đến mình, đến người, đến nhân tình thế thái. Đó là cách nhìn rất riêng của Minh Hiền.

 

                                                        Nghiêm Thản

 

 

MỘT MẪU NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM

QUA BÀI THƠ “MỘT MÌNH ANH”

CỦA MINH HIỀN

 

MỘT MÌNH ANH

 

Em nằm viện

Anh ở nhà một mình thật khó

Chắc chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ

Và tiếng mọt giường kèn kẹt cầm canh.

 

Anh có nghe tiếng em thở rất nhanh.

Một mình em đối diện đen trong tối

Bước chân ai như bác sĩ rất vội

Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê.

 

Từng giọt truyền nhảy múa trong mê

Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt

Tỉnh ra mới thấy quanh mình đông chặt

Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây.

                                                                             

Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây

Em không tin bệnh tình đến vậy

Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy

Và anh sẽ thiệt thời khi em nằm viện lâu.

 

Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu

Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt

Tự nhắc mình hãy rộng lòng, đừng khe khắt

Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.

 

                                            Minh Hiền

 

 Lời bình của Nghiêm Thản  

 

     Trong cuộc sống của mỗi gia đình, “mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh”. Với ống kính của Minh Hiền chị đã tái hiện lại văn cảnh của một gia đình không nấy gì hạnh phúc lắm, bằng những vần thơ buồn man mác. Nhưng chị lại cho độc giả thấy một mẫu người Việt sẵn có từ xa xưa, đó là “ Công dung ngôn hạnh”. Một người phụ nữ, một người vợ, luôn nhận lấy phần thiệt về mình, mà vẫn lo lắng cho chồng con đầy đủ:

            Em nằm viện

            Anh ở nhà thật khó”

     Câu thơ giản dị như câu nói cửa miệng mà khiến độc giả phải dừng lại suy ngẫm và nẩy tính tò mò. Bởi có người phụ nữ nào đáng thương và đáng trân trọng như thế không? Đã ốm đã đau chưa biết bệnh tình ra sao, nhưng cái lo đầu tiên khi nằm viện vẫn là cho chồng, ai là người cơm nước giặt giũ cho chồng đây. Chỉ hai câu mở đầu Minh Hiền cũng đã cho ta thấy một người phụ nữ rất mực đảm đang, tần tảo vì chồng vì con, gánh vác tất cả công việc nội trợ trong gia đình… Một người phụ nữ rất Việt Nam, như câu ca dao đã đi vào lòng người:

                  “Chồng em, em quí em thương

            Chồng người áo gấm xông hương, mặc người”.

     Cho dù người chồng ở bất cứ cương vị nào, hoặc là quan chức, hoặc là những kẻ ăn không ngồi dồi, sống lối sống gia trưởng, khinh rẻ vợ con, coi vợ chỉ là vợ, thậm chí vợ chỉ là nợ… Sống vô tâm, vô cảm. Kể cả những khi vượt cạn, cho đến lúc ốm đau phải nằm viện không ai chăm sóc:

Chắc chẳng nghe thấy đêm thu giẹo giọ

            Và tiếng mọt giường kèn kẹt cầm canh”.

     Để bảo vệ hạnh phúc của gia đình, người phụ nữ trong thơ Minh Hiền đâu có dám đòi hỏi sự bình đẳng, mặc dù họ biết chắc rằng người chồng vô tâm bạc bẽo kia vẫn ăn no ngủ kĩ có biết đâu người vợ của mình với sức khỏe tàn tệ, “giẹo giọ” đang chống đỡ với bệnh tật. Ở đây ta bắt gặp cụm từ “Đêm thu giẹo giọ”, nghe lạnh lẽo quá, mà tại sao Minh Hiền không dùng “đêm đông” cho thêm phần giá lạnh. Các thi sĩ thường hay dùng các mùa để nói đến tuổi tác con người. Nói mùa xuân là nói đến sức sống căng tràn của tuổi trẻ, “tuổi xuân ta đi lên phơi phới”… Vậy thì từ “đêm thu” chứng tỏ tác giả đang muốn nói đến tuổi của người vợ kia đã xế chiều, mà lại “giẹo giọ” nữa thì thật quá tồi tệ, liệu có chống đỡ được bệnh tật hay chăng. Trong cái giấc ngủ ngon lành kia, người chồng vô tâm ấy liệu có nghe thấy tiếng rên đau đớn của người vợ hay không, có biết huyết mạch đang tăng dần đến mức nguy kịch hay không, hay chỉ nghe thấy tiếng mọt giường kêu “kèn kẹt” như nghiến vào từng thớ thịt người bệnh. Ngôn ngữ trong thơ Minh Hiền như cởi gan cởi ruột, ta nghe những tiếng côn trùng trong đêm đã thấy não ruột não gan rồi, mà ở đây lại là tiếng mọt kêu “kèn kẹt”, giống tiếng dao cạo tinh tre tinh nứa , nghe đến kển hết cả da thịt. Giọng thơ của chị buồn buồn mà như đay như nghiến, như trì như trích. Chỉ 2 câu thơ cuối trong khổ đầu cũng đã cho độc giả thấy nhân cách của một mẫu người chồng khó chấp nhận. Để đẩy tính kịch lên đến cao trào, Mình Hiền cho ta thấy cụ thể hơn:

 “Anh có nghe tiếng em thở rất nhanh.

Một mình em đối diện đen trong tối

Bước chân ai như bác sĩ rất vội

Sợ mạch máu này rạn vỡ tràn đê”.

     Đến đây mạch thơ của chị lại chuyển sang lối viết tự sự, không kể lể mà ta vẫn thấy được tâm trạng của người phụ nữ, người vợ đang hoang mang, lo lắng, thất vọng, tưởng mạch máu của mình “sẽ rạn vỡ”.Chỉ một câu trong khổ thơ thứ 2 “Một mình em đối diện đen trong tối” độc giả cũng đã thấy được điều đó. Minh Hiền có lối viết láy ý chứ không láy từ: “đối diện đen trong tối” để đẩy nội dung lên đến cao trào hơn. Ta vẫn thừa biết đen đồng nghĩa với tối. Nhưng ở đây Minh Hiền lại đưa vấn đề “đối diện đen”, đối diện với cái chết cận kề, mà lại ở “trong tối”, có sáng sủa gì đâu, gần như không lối thoát. Thế mới là hay. Cách đặt vấn đề thật tuyệt vời. Bởi trong hoàn cảnh trớ trêu, một thân một mình, “đơn phương, độc mã” ốm đau không người chăm sóc an ủi, lại phải đối diện với con bệnh hiểm nghèo thì niềm hy vọng rất mong manh:

            Từng giọt truyền nhảy múa trong mê

            Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt

            Tỉnh ra mới thấy quanh mình đông chặt

            Thoát hiểm rồi, em vẫn còn đây.”

     Có lẽ nữ sĩ Minh Hiền cũng là phụ nữ nên chị dễ thông cảm, và đồng cảm với chị em hơn. Trong cơn mê sảng “từng giọt truyền nhảy múa” như ma trêu quỷ hờn, người phụ nữ vẫn muốn sống, vẫn “Quờ tay lên vớt ánh đèn đầy mắt” để tìm sự sống chăng, nhưng chỉ là thứ ánh sáng lờ mờ “đầy mắt” có nhìn thấy ai đâu. Thơ của chị đầy tính giáo dục, và có hậu. Người ta thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Kể cả lúc khó vẫn đáng sống hơn, “Thoát hiểm rồi, em vẫn còn em đây”. Em vẫn còn sống để anh (chồng) đỡ vất vả hơn. Câu thơ đầy tự tin và lạc quan, đậm tính nhân hậu. Cũng như người Phụ nữ Việt Nam là vậy, qua cơn hiểm nghèo lại nghĩ đến chồng con, lại nghĩ đến trách nhiệm, bổn phận của mình là làm vợ và làm mẹ:

           “Nhìn ra xa đen kịt những bóng mây

            Em không in bệnh mình đến như vậy

Nhớ món canh cua ngon, anh thường khen đấy

Và anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu.”

     Đúng là “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” huống chi là tình cảm vợ chồng. “Giận thì giận, mà thương thì vẫn cứ thương”. Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu / Thương nhau đến lúc bạc đầu còn thương”. Thơ của Minh Hiền đầy tính nhân văn, cái thiệt thòi của người phụ nữ trong thơ Minh Hiền là không có từ “thương nhau”, mà chỉ một mình lo cho bệnh tật mình, lại càng lo cho chồng, chỉ “Một Mình anh” ai là người chăm sóc, ai là người “nâng khăn sửa túi” cho chồng, thiếu bàn tay phụ nữ rồi sẽ ra sao “Và anh sẽ thiệt thòi khi em nằm viện lâu”. Vẫn mong có chồng bên cạnh, cho dù người chồng ấy là gì đi chăng nữa:

“Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu

Chắc công việc làm anh bù đầu tối mặt

Tự nhắc mình, rộng lòng, đừng khe khắt

Thương anh nhiều, cuộc sống vẫn còn đây.”

      Đọc thơ Minh Hiền mà thấy chua xót ngậm ngùi. Tâm lý người bệnh khi nằm viện, ai mà không mong muốn có người thăm hỏi, bạn bè ư? Đoàn thể ư? Tất cả đều chỉ thoáng qua! Còn người thân nhất là chồng, đầu gối má kề thế mà “Đảo mắt quanh phòng vẫn chẳng thấy anh đâu”, rồi lại tự mình an ủi, chấp nhận cam chịu với số phận. Minh Hiền tái dựng lại mẫu người Việt Nam là vậy, “đã bước chân về nhà chồng thì sống là người nhà chồng, chết là ma nhà chồng”. đây ta thấy cách bố cục của Minh Hiền rất logic và chặt chẽ, khổ kết chị dùng phương pháp đòn bẩy, câu đầu khổ chị đưa vấn đề cần chồng ra như một điểm tựa, rồi đẩy vấn đề cốt lõi của tứ thơ lên cao là chấp nhận số phận yếu mềm của mình “Sống được là may”. Tư tưởng trong thơ Minh Hiền luôn hướng thiện, không vị kỉ, đầy lòng vị tha. Đó chính là phẩm chất cao đẹp đáng trân trọng, nhưng cũng đáng thương, cũng chính là phẩm chất của những người vợ, người phụ nữ gốc Việt.

     Với 5 khổ thơ Minh Hiền đã tạo dựng nên một màn bi kịch nhưng lại có hậu. Chị viết thơ mà như viết truyện, có lẽ Minh Hiền là nhà văn thì đã cho độc giả thưởng thức một chuyện ngắn khá thú vị với những cá tính của hai nhân vật chính là người vợ trung hậu đảm đang rất mực yêu chồng, và người chồng lãnh đạm, vô tâm coi thường vợ. Qua thơ của chị, phái mày râu mới thấy rằng rất cần và biết ơn chị em phụ nữ nhiều hơn.

                                                         Nghiêm Thản                                                                                                                             

TIẾNG MƯA HAY TIẾNG LÒNG

Qua thi phẩm “Mưa đêm nhớ anh” của

Nguyễn Thị Lộc

 

ĐÊM MƯA NHỚ ANH

 

       Đêm mưa từng giọt rơi rơi

Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này

      Căn phòng lạnh lẽo bấy nay

Xót thương người ở chân mây cuối trời.

      Nỗi niềm năm tháng đầy vơi

Mong sao lo được cuộc đời ấm no

      Mình em gắng sức chăm lo

Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.

      Các con khôn lớn mỗi ngày

Học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm

      Việc nhà việc nước vẹn toàn

Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.
      Nhớ bao ký ức trong mơ

Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
      Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh... canh thâu nhớ người!

 

                                                   Nguyễn Thị Lộc

Lời bình của Nghiêm Thản

 

     Mỗi hạt mưa rơi rơi nỗi buồn lại như thấm vào tim, nhìn mưa lúc nào cũng có những nỗi buồn man mác không tên, những cơn đau đáu trong nguời, những muộn phiền… Nhưng nỗi buồn không tên lại đẹp một cách lạ kỳ chỉ có những người trải lòng cùng mưa mới hiểu, buồn nhưng không rơi nước mắt, chắc có lẽ trời đã khóc thương dùm. Mưa luôn mang đến cho con người ta nhiều những cảm xúc, đặc biệt là khi con người ta yêu, và mỗi người là một cảm xúc khác nhau trong tình yêu. Những hạt mưa hình như cũng đã đánh thức những ký ức những kỷ niệm rất xa xăm với tuổi 82 của tác giả Nguyễn Thị Lộc, da diết nhớ đến người chồng đã quá cố. Đây cũng chính là tình cảm và phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam:

.      Đêm mưa từng giọt rơi rơi

Có ai thấu hiểu lòng tôi lúc này

      Căn phòng lạnh lẽo bấy nay

Xót thương người ở chân mây cuối trời.”

     Câu thơ day dứt xót xa, những giọt mưa như cứa vào lòng. Tình cảm, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam là vậy, họ luôn nhớ câu: “Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con, họ biết hy sinh tất cả, cam chịu cảnh cô đơn gối chiếc, một lòng thờ chồng nuôi con. Câu thơ giản dị đã nói được cái riêng của lòng mình và cũng là cái chung của mọi người, tác giả đã biến cái tôi thành cái ta. Không riêng gì tác giả mà nhà thơ Lê Hoàng cũng đã viết:

        “Đêm nằm nghe tiếng mưa rơi

        Xốn xang nỗi nhớ một người xa xăm

                         Gió luồn cơn rét lạnh căm

                   Tái tê cõi dạ như dằm trong tim”

                                    “Tâm sự với em – Lê Hoàng”

     Có lẽ cái xót xa, nỗi đau ấy người trong cuộc mới hiểu hết được nỗi lòng tác giả, họ đã hy sinh tình cảm riêng tư của mình để nuôi dạy con khôn lớn thành người. Chứng tỏ rằng những người phụ nữ như thế họ rất yêu chồng, thương con. “Chồng em áo rách em thương” Đó cũng là cái đức của người vợ, người mẹ Việt Nam, dù khó khăn đến mấy khi thiếu một bờ vai làm chỗ dựa, nhưng họ vẫn tần tảo sớm hôm mong sao có được cuộc đời ấm no:

      “Nỗi niềm năm tháng đầy vơi

Mong sao lo được cuộc đời ấm no

      Mình em gắng sức chăm lo

Nếp nhà gìn giữ sao cho đủ đầy.”

    Với mạch thơ đầm ấm thiết tha da diết cứ chảy đều đều ngôn từ không hoa mỹ giọng thơ tự sự, ta càng thấy cái “nỗi niềm năm tháng đầy vơi ” của tác giả, mong sao con cái mình vẫn giữ được cái nề nếp gia giáo của gia đình.

      Viết về mẹ là vậy, người mẹ luôn là bóng mát che chở cho đàn con, “chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo nhường con”. Nhà thơ Lộc Tịnh viết về mẹ cũng không kém phần cảm động:

      Lau nước mắt vì con lam lũ,

Thấm mồ hôi bởi số nhọc nhằn.

      Hàng nghìn, hàng vạn gian truân

Quê nghèo vất vả, phong trần gió sương.”

                            (Mẹ tôi – Lộc Tịnh)

      Tác giả Nguễn Thị Lộc vẫn mong như bao bà mẹ khác mong, đó là tấm lòng của người mẹ:

                       “Các con khôn lớn mỗi ngày

 Học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm

       Việc nhà việc nước vẹn toàn

Gương anh ngời sáng cho đàn con thơ.”

     Các con khôn lớn mỗi ngày, học hành chăm chỉ, khéo tay hay làm”, đó chính là công lao của người mẹ. Người mẹ như một cô giáo trong nhà có đủ tứ đức “công, dung, ngôn hạnh” thay chồng nuôi con, làm mát lòng chồng nơi chín suối. Cụm từ “gương anh sáng ngời” tác giả đã cho ta thấy rõ ràng đây là một gia đình gia phong nề nếp. Các con càng khôn lớn thành đạt người vợ lại càng nhớ tới người chồng thân yêu của mình, bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức lại ùa về:

      “Nhớ bao ký ức trong mơ

Bóng người yêu dấu bây giờ nơi đâu?
      Em bên di ảnh nguyện cầu
Ngoài trời mưa lạnh... canh thâu nhớ người!”

      Bên bàn thờ chồng, bên di ảnh chồng chắc người vợ thầm nghĩ anh hãy về chia vui cùng vợ và các con. Khổ kết câu thơ lại càng da diết yêu thương, chứng tỏ rằng ở tuổi 82 mà tâm hồn của tác giả còn rất trẻ, đầy sức sống, bởi giọng thơ rất trẻ.

     Với 16 câu lục bát mượt mà đầy chất trữ tình, tác giả chia làm 4 khổ, bố cục chặt chẽ mạch lạc, như một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, khổ đầu là mở, khổ 2 là thực, khổ 3 là luận và khổ cuối là kết. Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc thấy một mẫu người phụ nữ Việt Nam có đẩy đủ phẩm hạnh. Bài thơ thể lục bát rất chuẩn ngọt ngào hiệp vần tăm tắp, khiến người đọc không nhàm chán. Bài thơ viết theo chiều mặt phẳng ngôn từ giản dị không hoa mỹ trìu tượng, dễ hiểu, tác giả trải lòng mình, nhưng lại như dựng lên một tấm gương để con cháu và người đời noi theo. Đây là một thành công của người cầm bút ở tuổi 82. Sức viết đầy triển vọng, rất tiếc tác giả lại vào tuổi Hạc tuổi Tiên. Chúc cụ bách niên giai lão vui vẻ cùng con cháu.

NHỮNG CẢM XÚC VƠI ĐẦY TRONG TẬP THƠ ĐẦU TAY “THÁNG BA” CỦA MINH HIỀN

 

Tôi rất may mắn được Minh Hiền gửi tặng bản thảo tập thơ mà chị chưa đặt tên. Chị tâm sự : Em sẽ đặt tên cho tác phẩm đầu tay này là “Tháng ba”. Bởi tháng ba với em rất nhiều kỉ niệm. Sau khi đọc hết, tôi cũng rất tâm đắc với sự suy nghĩ của chị. Quả thật trong tập thơ chị viết rất nhiều về tháng ba, những hình ảnh tháng ba như gợi nhớ gợi thương, tháng ba như khắc sâu vào tâm trí chị.

    Trong tập “Tháng ba” Minh Hiền đã chia sẻ tâm tư tình cảm của mình, lúc ngọt lúc bùi, lúc vui buồn, lúc thăng lúc trầm. Chị ca ngợi quê hương, non sông đất nước, bạn bè. Về biển đảo, tình yêu đôi lứa chị viết :

       Bờ cát dài xa xa mãi khoảng không

         Con dã tràng vê nỗi buồn vào cát

         Hạt từng hạt, lăn tròn man mác

         Khoảng lặng xa  mờ, em và biển nhớ mong”.

                                                       (Đêm trên biển)

     Để giữ gìn biên cương, các bạn trai đã tạm xa người yêu, đến nơi đảo chìm đảo nổi, thì tránh sao được những nỗi buồn man mác. “Em và biển nhớ

mong" đó là hình tượng sự hy sinh cao đẹp của tình yêu nam nữ. Minh Hiền, chị còn vẽ nên bức tranh

biển đảo thật đẹp, và khẳng định chủ quyền của mình :

         Biển đảo ngày đêm mênh mang lộng gió

           Sóng xô bờ dào dạt bản tình ca

           Nắng vẫn chan hòa, nắng thừa trên đá

           Biển hiên ngang, biển đảo của ông cha”.

                                                            (Biển đảo)

     Tổ Quốc ta thật đẹp, nhìn trên bản đồ hình chữ S, biển đảo như nắm gạo vãi ra, ông cha ta đã giữ gìn từng tấc đất để “biển vẫn hiên ngang”.Từ nơi biển đảo Minh Hiền lại ngược lên miền sơn cước để đến với Khau Vai chợ tình:

                     Chợ tình đã tới tràn đêm

               Khau Vai ai đến mang duyên đi tìm

                      Phận em bẩy nổi ba chìm

               Đò vơi sang vội, ngược miền lũ dâng”.

                                                (Khau Vai phiên tình)

  Có lẽ cả Á Đông nói chung và Việt nam nói riêng có một chợ tình mang mầu sắc của phương Tây, mà Minh Hiền đã minh chứng được.Quả là “tình đầu dễ mấy ai quên” họ ngược cả “miền lũ dâng” để đến với nhau cho dù núi cao vực thẳm. Với bước chân

lãng tử của một văn nghệ sĩ từ vùng cao xa xôi chị lại về thăm mộ nhà thơ Nguyễn Bính : 

                  Tôi về thăm mộ nhà thơ

            Hoa xoan rụng tím ngẩn ngơ tình đời

                  Chẳng còn cái dậu mồng tơi

            Cửa cài then đóng ở nơi nhà nàng

                                             (Thăm mộ Nguyễn Bính)

      Viếng mộ Nguyễn Bính mà chị ngậm ngùi cho mối tình của nhà thơ quá cố. Chị thấy “đầy đồng sắc cỏ hương bay / Hậu sinh Nguyễn Bính xin vay thơ tình / Áo the ai đứng đầu đình / Mớ ba mớ bẩy trăng rình ngắm em”. Cũng như Nguyễn Bính chị lo cho những em gái dại khờ :

                 Em ơi lên tỉnh chớ lâu                                   

          Ngày về nhớ vẹn nguyên mầu chân quê”

                                                       (Đọc thơ Nguyễn Bính)

      Bước chân của chị đặt trên mọi miền đất nước. Về quê Bác làng Sen Minh Hiền không quên đến Hà Tĩnh tới ngã ba Đồng Lộc thăm viếng mười cô gái thanh niên xung phong đã ngã xuống cho Tổ Quốc hồi sinh :

          “Ngã ba Đồng Lộc mười cô con gái

          Cuốc xẻng bồ cào san lấp hố bom

          Trinh trắng tươi nguyên một thời phơi phới

          Hiến dâng mình cho đất nước vẹn nguyên”.

     Có lẽ Minh Hiền sinh ra để đi và viết, đi mãi rồi chị lại về với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nơi có mồ mả ông cha, nơi có lời ru của mẹ, có tiếng

võng đưa kẽo kẹt, có cánh diều bay bổng tít từng không :

           Tôi lại về thân thương giữa miền quê

            Nơi sinh ra có ngôi nhà yêu dấu

            Nơi có tình mình ngày đêm nung nấu

            Sáo diều ngân mãi đến buổi hoàng hôn”.

                                                    (Bức tranh quê) 

    Quê hương là chùm khế ngọt”.Ai ai cũng có một miền quê, nơi chứa chất đầy những kỷ niệm buồn vui, nơi chia sẻ vơi đầy nỗi lòng, “nơi có tình mình ngày đêm nung nấu”. Nơi có “cổng làng mắc nợ bước chân”đã “trải bao năm tháng vẫn xoay vần” vẫn “rêu phong loang lở phủ dầy”và vẫn “cong cong mái lợp phủ đầy thời gian”, để mọi người :

                    Xa đi nhung nhớ chứa chan

              Về gần thao thiết nồng nàn cổng quê”

                                                     (Cổng làng)

     Cổng làng thân thương là vậy, và cũng là nét văn hóa đặc chưng của dân tộc Việt Nam. Từ bậc danh

nhân tiến sĩ đến mọi người dân đều qua cổng làng. Khi bước chân ra đi tha hương cho lúc về với quê hương làng xóm thân yêu cũng qua cổng làng. Người lính bồng súng ra đi cứu nước cũng qua cổng làng. Người con gái đi lấy chồng nơi đất khách quê người, lúc trở về thăm mẹ cha cũng qua cổng làng. Cả khi trút hơi thở cuối cùng để về nơi cực lạc cũng qua cổng làng… Trong nhộn nhịp thời mở cửa, từ làng lên phố nhiều nơi đã đánh mất đi cái đẹp thuần túy đó, Minh Hiền đã xót xa cho những vùng quê ấy :

                     “Làm gì còn gốc cây đa

               Mà trèo quán dốc thương ta với mình

                   “Tìm đâu ra luống rau lang

               Bờ tre rặng chuối mơ màng bãi dâu”.

                                                     (Còn đâu)

    Tuy vậy chị vẫn bắt gặp những mối tình trong trắng ngây thơ của nam thanh nữ tú trong làng, họ yêu nhau thật giản dị, những kỷ niệm ngập tràn hương đồng gió nội, mang đậm mầu sắc của một vùng quê thanh bình, họ yêu nhau bắt đầu từ:

        “Áo trắng em nhuộm tím quả mồng tơi

        Anh vẽ hình trái tim lấp ló

        Hai nhịp đập xốn xang mạch nhớ

­­­­­­­­        Kỷ niệm ngập tràn hương bưởi hương chanh”.

                                           (Hoài niệm tháng năm)

Tình yêu đôi lứa hồn nhiên là vậy, rất giản dị, nồng nàn, xao xuyến một miền quê yên ả. Về tình cảm gia đình, về mẹ chị viết đằm thắm thiết tha mặn nồng:

           “Lâu lắm rồi con mới về thăm mẹ

           Gió đông buồn lạnh buốt chiều cuối năm                           

           Căn buồng xưa vẫn ướt chỗ mẹ nằm

           Ông bình vôi tha thẩn nơi góc cửa”

                                                    (Về quê nhớ mẹ)

       Gió đông về càng làm cho nỗi buồn nhớ người mẹ đã khuất thêm da diết, mẹ lúc nào cũng hết lòng

vì con “căn buồng xưa vẫn ướt chỗ mẹ nằm”, chỗ khô ráo mẹ nhường cho con. Người đi rồi bình vôi vẫn còn đấy, bao kỷ niệm vẫn còn đây. Cả đời chị “canh cánh bên lòng / hình bóng mẹ hư vô mờ ảo”. “Tháng ba” là tháng nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất với chị, cũng từ “tháng ba” chị vĩnh viễn không còn nhìn thấy mẹ! Lúc ấy chị còn bé lắm, nên tình cảm chị bị dồn nén, thơ chị được dồn nén, nên đã bật ra những cảm xúc nghẹn ngào :

            “Tháng ba nào con cũng về  với mẹ

         Khói hương trầm nghi ngút lệ hàng mi

              Mẹ ra đi ngày ấy còn gì

         Con canh cánh không thể vơi nhớ mẹ”

                                                 (Lời ru tháng Ba) 

     Tháng ba” như của riêng chị, không gian đầy ắp những nỗi buồn man mác, như chơi vơi hẫng hụt, bởi chị luôn nhớ đến mẹ, chị luôn thiếu tình cảm của mẹ:

          “Không gian này như thể chơi vơi!

            Con tìm mẹ trong muôn và thương nhớ

            Nụ bòng bòng, xanh xanh e ấp nở

            Cầu ao mùa này chẳng thấy mẹ.Tháng ba”.

                                               (Tháng ba với tôi)

   Càng thiếu thốn tình cảm bao nhiêu, thì con người ta càng giầu tình cảm bấy nhiêu. Minh Hiền, chị là con người đa sầu đa cảm, nên thơ của chị rất giầu tình cảm, hình bóng mẹ như theo suốt cuộc đời chị :

                 “Mẹ đi buồn cả hàng cau

           Chum tương chát mặn, trầu đau úa vàng”

                                                               (Nhớ mẹ)

     Đọc những dòng tâm sự này mà thấy xót xa.“Sểnh còn chú, sểnh mẹ bú dì”.Chị rất may mắn được dì ruột cưu mang, nên chị coi dì như mẹ đẻ của mình :

                     “Hai quê ở giữ chợ Đu

                Còng lưng dì cõng lời ru mẹ về

                      Cỏ may ấm áp chân đê

                 Đội sương sướt mướt tiếng quê gọi dì”.

                                                             (Mẹ dì của con)

       Đọc thơ Minh Hiền ta còn thấy chị là một người vợ chung thủy, hiền thục, khéo léo, mềm mỏng với chồng, thật hài lòng có một người vợ như chị. Gia đình chị thật hạnh phúc :                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  

              “Anh đừng buồn vì người khác yêu em

                Đã là hoa phải có nhiều người ngắm

                Bông hoa đẹp siêu lòng người say đắm

                Đủ sắc mầu tạo hóa đã tăng riêng”.

                                                      (Anh đừng buồn)

     Gia đình hạnh phúc là điều mong ước của nhiều

người, với các con chị luôn ôn lại những kỷ niệm xưa của bà, của ông để con cháu noi theo :

                    “Mẹ ngồi lục lại nhớ quê

                 Mo cau còn gói nắm cơm xa nhà

                       Ngủ ngon đi cháu của bà

                  Bát cơm nguội vét thật thà vào xưa”

                                                 (Tiếng vọng lời ru)

     Tập thơ “Tháng ba”của Minh Hiền là những lời tâm tình chị viết ra từ máu thịt ruột gan mình, lời thơ đằm thắm thiết tha da diết, câu thơ đẹp, giản dị mang nhiều mầu sắc dân tộc, gần gũi với quần chúng. Nhiều ngôn từ mới lạ nhưng không cầu kì, cấu tứ chặt chẽ, nên cuốn hút độc giả. Thơ của chị còn phản ánh được cái thực của xã hội thời mở cửa, sự hi sinh tình yêu đôi lứa để giừ gìn biên cương biển đảo. Xin các độc giả hãy chia sẻ cùng chị, để chị có giầu cảm xúc viết nhiều bài thơ hay hơn nữa. Chúng ta hãy đón đọc nhưng tập sau của chị.

 

                                                            Nghiêm Thản

 

CHIẾC ÁO TƠI HAY BÓNG MÁT CỦA MẸ

QUA THI PHẨM “ÁO TƠI MẸ MẶC”

CỦA NGUYỄN THỊ LỘC

 

 

ÁO TƠI MẸ MẶC

 

      Áo tơi mẹ mặc một thời

Che mưa, che nắng, che trời bão giông

      Hai sương một nắng trên đồng

Cái nắng tháng sáu mưa giông ngày hè

      Chang chang nắng, mưa dầm dề

Áo tơi nón lá đi về sớm trưa

      Khi ruộng cấy, lúc cày bừa

Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu

      Con nghe mẹ kể lần đầu

Tưởng rằng câu chuyện nơi đâu xa vời

      Áo tơi mẹ mặc một thời

Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay

      Áo tơi nghĩa mẹ cao dày

Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi

 

                                          Nguyễn Thị Lộc

 

 

 Lời bình của Nghiêm Thản

 

     Cái áo tơi được xem là phương tiện hữu hiệu nhất thường được làm bằng lá cọ khâu từng lớp chồng lên nhau như lợp ngói mái nhà, dày chừng 10mm để che nắng che mưa, chống rét, còn có thể trải ra thay chiếu nằm để nghỉ ngơi hoặc có thể dùng để làm mâm dọn cơm ăn, hay dùng để đùm chè để giữ cho chè (trà) xanh tươi. Ông cha ta ngày xưa nghèo khó chiếc áo tơi còn được dùng làm chăn đắp trong những ngày giá rét. Từ thời xa xưa áo tơi ra đời nhằm mục đích che mưa,  nhưng ngày nay thường được dùng để chống nắng nóng, hạn chế tia nắng chiếu thẳng xuống lưng và giảm mồ hôi khi đi ngoài trời hoặc khi làm việc ngoài đồng. Người nông dân mỗi khi làm việc ngoài trời không thể thiếu được chiếc áo tơi, mang theo được chiếc áo tơi là yên tâm lắm, Trong ca dao có câu:

      “Trời mưa thì mặc trời mưa

Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi”.

     Bài “Áo tơi mẹ mặc” của tác giả Nguyễn Thị Lộc đã nói nên được điều này:

      “Áo tơi mẹ mặc một thời

Che mưa, che nắng, che trời bão giông

      Hai sương một nắng trên đồng

Cái nắng tháng sáu mưa giông ngày hè

     Hình ảnh chiếc áo tơi che nắng che mưa của tác giả Nguyễn Thị Lộc được phác họa lên lại là hình tượng của người mẹ, người mẹ suốt đời che chở cho con. Câu “Áo tơi mẹ mặc một thời”chỉ là nghĩa đen của một thời mẹ còn sức lao động, nhưng câu “Câu che mưa, che nắng, che trời bão giông” thì tác giả lại biến cái thực thành cái ảo. Ở đây hình ảnh chiếc áo tơi lại là mái ấm tình thương của người mẹ, là mái nhà, là bóng mát che chở cho đàn con. Người mẹ tần tảo “hai sương, một nắng trên” đồng bất chấp cả những khi thời tiết vô cùng khắc nghiệt như “cái nắng tháng sáu” và “mưa giông ngày hè” suốt ngày lăn lộn ngoài trời khi “chang chang nắng”, lúc “mưa dầm dề”. Tấm lòng của người mẹ là vậy. Để có được bát cơm manh áo người mẹ đã không quản chi khó nhọc:

      “Khi ruộng cấy, lúc cày bừa

Dãi dầu nắng, dãi dầu mưa dãi dầu”

     Người mẹ chịu thương chịu khó là vậy, chiếc áo tơi che trên lưng người mẹ cũng chính là người mẹ đang che chở ôm ấp những đứa con. Vậy nên hình ảnh chiếc áo tơi chính là bóng hình của người mẹ thân yêu. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng đã viết về chiếc áo tơi khi nghĩ đến mẹ:

Tay mẹ héo ruộng bậc thang cấy rẽ
Tôi đỡ lấy chiếc áo tơi của mẹ
Mụn cua càng bò trên mảng sân con
Tháng tám khói lên lúa xuống đòng đòng”

                    (Trường ca biển – Hữu Thỉnh)

     Nói về chiếc áo tơi là vậy. Nhưng xã hội luôn luôn phát triển, ngày nay chiếc áo tơi không còn phổ biến nữa mà dường như đã mai một đi, cái phương tiện che được cả nắng cả mưa, và nhiều tác dụng khác như chiếc áo tơi đã được thay thế bằng những thứ khác như áo mưa bằng chất liệu nilon gọn nhẹ, và những chiếc ô dù xinh xắn. Nói đến áo tơi lớp trẻ hiện nay, trừ những vùng nông thôn thuần túy hầu như không mấy ai còn biết. Cũng giống như nói đến cái ao ngay cả những vùng nông thôn đổi mới đã đô thị hóa rồi, các cháu ít tuổi không còn biết nữa. Vậy thì Bài thơ Áo tơi mẹ mặc” lại làm sống lại một thời ông cha ta đã dùng nó như một vật dụng hữu hiệu, Tác giả Nguyễn Thị Lộc đã lật lại những trang văn hóa cổ xưa của ông cha ta, và chiếc áo tơi luôn là hình ảnh của mẹ:

      “Áo tơi mẹ mặc một thời

Nuôi con khôn lớn nên người hôm nay”

      Cả bài thơ tác giả chỉ nói về tác dụng của chiếc áo tơi đã che nắng che mưa cho mẹ, và những gian khổ của người mẹ nuôi con. Nhưng chỉ hai câu kết ta mới vỡ ra rõ ràng rằng áo tơi chính là mẹ, mẹ là chiếc áo tơi:

        “Áo tơi nghĩa mẹ cao dày

Công ơn của mẹ tháng ngày con ghi”

     Nói về nghệ thuật đây chính là cách ví von so sánh chuẩn mực, đưa hình ảnh chiếc áo tơi để kích tấm lòng của người mẹ lên đến cao trào của bài thơ, chỉ hai câu cuối cũng đã làm cho bài thơ lung linh tỏa sáng cả bài thơ. Đây chính là nghệ thuật của người cầm bút trong lối sử dụng ngôn ngữ trong thơ.

      Chỉ với 14 câu lúc bát với những ngôn từ rất đời thường, mang dáng dấp màu sắc giai điệu dân ca, rất mượt mà và súc tích, tác giả Nguyễn Thị Lộc đã cho người đọc hiểu thêm được lịch sử phát triển của loài người trong lao động đã biết dùng những vật dụng gì để bảo vệ sức khỏa của mình. Tác giả đã sử dụng hình ảnh chiếc áo tơi để biến thành hình tượng người mẹ. Đây chính là nghệ thuật rất khéo léo khi viết thơ, là vết chấm son của tác giả Nguyễn Thị Lộc. Xin chúc cụ khỏe mạnh vui cùng con cháu và viết nhiều bài thơ hay hơn nữa.

 

                                                      Nghiêm Thản

 

TA HÃY XEM NỮ SĨ KIM QUY  BUỐN BÁN NHƯ THẾ NÀO QUA THI PHẨM “PHEN NÀY QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN”

 

PHEN NÀY QUYẾT CHÍ ĐI BUÔN

 

      Rong chơi ngày tháng thêm buồn

Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền

      Tôi gom gió bán cho thuyền

Mang con sóng dữ bán miền biển khơi

      Đem mây bán cả cho trời

Làm mưa rơi xuống được lời lúa non

      Nhặt lên những lối đường mòn

Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng

      Tay cầm lên những búp măng

Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người

      Cuối cùng còn mỗi nụ cười

Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô

      Thèm mua một cái ô tô

Chở làn quan họ bán cho sông Cầu

      Có tiền mua cái nhà lầu

Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình

 

                                        Kim Quy

Lời bình của Nghiêm Thản

 

      Châm ngôn có câu “Phi thương bất phú”. Thật vậy nghèo thì buôn thúng bán mẹt mới có đồng ra đồng vào, lớn hơn một chút thì buôn bán chợ nọ chợ kia, lớn hơn nữa thì buôn tàu bán bè, mở các cửa hàng cửa hiệu, mở các công ty, buôn bán với nước ngoài, mở rộng thương mại ngoại thương trên toàn cầu…

      Ngay đề bài tác giả đã làm cho độc giả phải tò mò, có phải chăng đây là một tứ mới lạ: “Phen này quyết chí đi buôn”. Nghe có vẻ quyết tâm lắm! có lẽ tác giả muốn làm tỷ phú chăng. Nhưng nó không mang tính trào lộng như bài “Chúc nhau“Phen này ông quyết đi buôn cối” của Trần Tế Xương. Ta thử xem Kim Quy chị buôn những gì và bán được cái gì cho thiên hạ.

      Những bài thơ hay dù ở thể loại nào, thường câu mở bài và câu kết liên quan với nhau rất chặt chẽ. Ta có thể ghép câu đầu với câu cuối cũng đã có thể trở thành một bài thơ tương đối hoàn chỉnh dù 2 câu hoặc 4 câu. Truyện Kiều Nguyễn Du viết: “Trăm năm trong cõi người ta” và câu kết: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Đúng thế, chỉ 2 câu lục bát, câu đầu và câu cuối cũng đã cho chúng ta thấy cái chuyện trăm năm trong một cõi đời người nó vô cùng lắm, nhưng nếu để mua vui với nhau thì dài lắm cũng chỉ một vài trống canh là hết. Trong bài thơ của Kim Quy chị mở đầu:

      “Rong chơi ngày tháng thêm buồn

Phen này quyết chí đi buôn kiếm tiền”.

      Dù chị viết cho chị hay chị viết cho ai đó cũng thế thôi, người ta có thể khẳng định rằng con người này rất mực phong lưu. Biết bao người phải lao tâm khổ tứ mới kiếm được miếng cơm manh áo, nhưng con người trong thơ của Kim Quy thì lại “thêm buồn” vì suốt ngày suốt tháng “rong chơi”, Vì thế mới nẩy sinh ra cái ý nghĩ “quyết chí đi buôn”. Nếu ta ghép 2 câu đầu với 4 câu kết:

      “Thèm mua một cái ô tô

Chở làn quan họ bán cho sông Cầu

      Có tiền mua cái nhà lầu

Mời thi nhân đến vịnh câu thơ tình”

      Bây giờ ta mới thấy cái tư tưởng táo bạo của tác giả, muốn mua cả xe hơi nhà lầu chỉ để phục vụ cái đẹp mà chúng ta đang thực hiện là sinh hoạt văn hóa văn nghệ quần chúng, một nếp sinh hoạt đã có từ đời Trần là các “Tao đàn thi ca”. Những tổ chức ấy nay chúng ta gọi là câu lạc bộ… Thơ là vậy, nó mang tính đặc trưng, ước lệ, thực tế khó có mấy ai làm được việc này, (trừ bà Y Kim Linh vợ nhà thơ Nghuyễn Đình Chiến, đang ở xã Văn Võ, huyện Chương Mỹ, Hà Nội đã xây một ngôi nhà lưu niệm cho chồng và hiện nay các CLB thơ vẫn tổ chức tới thăm viếng). Nhưng dù sao câu thơ cũng đã chuyển tải được ước mơ của riêng tác giả và chung của mọi người.

      Câu kết tác giả đã biến cái tôi thành cái ta, cái riêng thành cái chung đó là những ước vọng của nhiều người. Nhưng chúng ta chưa biết Kim Quy chị buôn những gì và liệu có tiền để thực hiện ước mơ lớn lao của mình hay không ta xem tiếp những câu tiếp theo, thì ra tác giả Kim Quy cũng là một nhà buôn sành sỏi:

      Tôi gom gió bán cho thuyền

Mang con sóng dữ bán miền biển khơi

      Đem mây bán cả cho trời

Làm mưa rơi xuống được lời lúa non

      Nhặt lên những lối đường mòn

Bán cho sườn núi để tròn vầng trăng”

      Những câu thơ trên chứng tỏ cho chúng ta thấy chị buôn bán rất có nghề, rất cao tay, chị biết những mặt hàng của mình phải bán cho ai, những đối tượng nào cần mua để bán. Chị “gom gió” để “ bán cho thuyền”, vì lẽ thường thuyền rất cần gió để căng buồm và “Thuận buồn xuôi gió” thì việc gì cũng xong. Chị “mang con sóng dữ” để “bán cho miền biển khơi”. Ở đây qua từ “ Sóng dữ” chứng tỏ đây là sự tìm tòi, và lao động nghệ thuât chứ không còn là viết của tác giả, bởi nó mang tính logic, những thứ dữ tợn thì bán cho ai, “ chó dữ mất láng giềng” nữa là, cho không người ta lấy cho còn là may. Nhưng nếu bán cho biển khơi thì có khi lại được nhiều tiền, bởi biển hiền hòa là thế nhưng nhiều khi cũng hung dữ vô cùng. Chị “đem mây bán cả cho trời” câu thơ đã hay còn đẹp, mang đầy tính họa trong ngôn ngữ thơ. Những câu thơ đẹp thường các tác giả hay vận dụng hình ảnh trăng hoa, núi non, sông nước, sơn thủy hữu tình… Ở đây Kim Quy vẽ cho ta thấy một bầu trời mây thật đẹp thật yên bình, đầy những đám may trắng để chuẩn bị cho những cơn mưa. Ta hãy xem Kim Quy dùng từ, chỉ một từ “cả” cũng đã cho ta thấy câu thơ đầy tính nhân văn, bởi nếu mây là đối tượng mua  để làm “mưa rơi” tưới mát cho con người, cho ruộng đồng cỏ cây hoa lá, thì rẻ cũng bán, mua tất cả cũng bán. Câu thơ ảo mà thật, chị “nhặt lên những lối đường mòn” để rồi bán cho sườn núi, vì dưới sườn núi thường là nhưng lối đường mòn, những lối đi của người sơn cước, những lối mòn của những cặp vợ chồng khi chồng say mèm nằm vắt lên lưng ngựa để vợ đưa về cho trọn nghĩa vợ chồng cho “tròn vầng trăng” là vậy. Câu thơ:  Bán cho sườn núi” để “tròn vầng trăng” tưởng như vô lý, bởi bán “ những lối đường mòn” cho “sườn núi” thì làm sao mà “tròn vầng trăng” cho được, có cái gì để làm được điều đó. Những bước chân của người sơn cước làm nên lối đường mòn để tìm đến miếng ăn, tìm đến manh áo, tìm đến hạnh phúc, nơi anh đi là lối em đưa về, để khép lại thành quĩ tích của đường tròn, để tình yêu thêm tròn trịa thì lại là có lý.

      Chỉ 3 cặp lục bát mà tác giả đã cho ta thấy kẻ cần mua người cần bán rất tâm đầu ý hợp. Chưa đủ, Kim Quy còn dựng nên cảnh mua bán thật sinh động:

      Tay cầm lên những búp măng

Tre thêm ấm bụi nên chăng hỡi người”

      Tác giả đặt ra một câu hỏi tu từ thật tuyệt. Trên đây tác giả đã dựng lên 4 mặt hàng “gió, sóng dữ, mây và lối mòn”, kẻ thuận mua và người vừa bán, còn thứ măng non để bán cho bụi tre, cho tre thêm ấm bụi. Có phải chăng Kim Quy muốn nói rằng trên hành tinh này ai cũng mưu cầu hạnh phúc. Hình ảnh tre ấm bụi cũng đã cho ta thấy sự ấm áp rồi. Câu thơ là một câu hỏi, nhưng lại tự trả lời, đó cũng là lối viết rất độc đáo của Kim Quy. Chị đã dựng lên một cảnh mua bán có tình có lý, cái thì muốn bán hết đi dù rẻ cũng bán, cái thì rẻ như cho không cũng muốn bán và nụ cười hả hê đã đến với chị:

      “Cuối cùng còn mỗi nụ cười

Ai mua không bán dẫu mười ngàn đô”

      Niềm vui trọn vẹn đã đến với chị, “nụ cười” chính là niềm vui của chị và cũng là niềm vui của cả nhân loại. Chúng ta chỉ chia vui với nhau chứ chẳng ai đem cái niềm vui của mình đi bán để rồi chuốc lấy khổ đau.

       Bài thơ không dài chỉ với 16 câu lục bát thật ngọt ngào êm dịu, mượt mà đằm thắm, bố cục rất chặt chẽ, phần kết rất có hậu. Kim Qui chị đã đẩy nội dung bài thơ lên đến cao trào, một cảnh mua bán với những mặt hàng ảo mà thật rất sinh động có mua có bán và có cái cương quyết mang về không bán đó là niềm hạnh phúc của tác giả và trong mỗi chúng ta. Đây là sự lao động nghệ thuật, chị đã tìm được một tứ thơ mới lạ, nhưng ngôn ngữ thân quen như lời nói cửa miệng mà bắt độc giả phải suy ngẫm. Chị đã biến cái riêng thành cái chung của nhân loại, đó là tính nhân văn, là lòng nhân ái và những ước mơ của chị cũng như của mọi người. Xin chúc mừng chị

 

                                                     Nghiêm Thản

 


GIỌT MƯA HAY GIỌT SẦU

QUA THI PHẢM “MƯA” CỦA THẨM BÌNH

 

MƯA

 

      Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!

Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng

      Giọt sầu se sắt tơ lòng

Giọt đau nức nở người trong cõi mồ.

 

                                                         Thẩm Bình

 

Lời bình: Nghiêm Thản

 

     Do sự vận hành của trái đất trong hệ mặt trời, hay nói một cách khác tạo hóa đã sinh ra con người, sinh ra trái đất thật kỳ diệu. Trên mọi miền của hành tinh xanh đã xảy ra thời tiết khác nhau, nơi nắng nơi mưa, nơi mát mẻ ôn hòa, nơi bão tố phong ba… Đã và đang ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống con người, tác động đến tâm tư tình cảm con người. Mưa. Cũng chỉ là mưa, từ thời cổ xưa, có nơi hạn hán kéo dài thì con người lập đàn cầu cho mưa thuận gió hòa, khi có được giọt mưa con người sung sướng xiết bao. Nơi thì mưa nhiều gây nên lũ lụt làm thiệt hại biết bao tài sản và đời sống của con người đã bao công tạo dựng.

     Viết về đề tài mưa, là chủ đề mà nhiều người viết, bởi mưa tác động đến con người thật nhiều. Trong thi phẩm “Mưa” của nữ sĩ Thẩm Bình ta thấy một nỗi buồn man mác trong chị, hình như nó đeo đẳng theo chị suốt cuộc đời. Mỗi lần mưa kéo dài lê thê dầm dề rả rích càng khơi dậy nỗi buồn trong chị, buộc chị phải kêu lên:

                    Thôi đừng mưa nữa mưa ơi!”

     Có lẽ chị không chịu được nỗi buồi da diết khi nghe những giọt mưa tí tách bên thềm. những giọt mưa như đang thấm lạnh con tim, như đang bào vào từng làn da thớ thịt chị, như muốn cướp đi những niềm vui, những khát khao, những ước mơ, những đợi chờ, trong khi chị mất mát quá nhiều chăng. Câu thơ dù chị viết cho chị hay chị viết hộ cho người khác vẫn làm động lòng người đọc. Với cụm từ “Thôi đừng mưa nữa” ta đã thấy cái tâm trạng khó chịu của con người khi thời tiết không bình thường. Câu thơ như một câu nói cửa miệng người đời, nhưng ta thấy tác giả đã đi từ hướng nội sang hướng ngoại, đi từ cái thực tại chẳng ai muốn mưa dầm dề kéo dài lê thê dẫn đến tâm trạng buồn buồn của con người. Cũng như nhà thơ Lê Nghiêm đã viết:

                          “Huế ơi! Sao Huế mưa nhiều rứa?

                    Mưa rầm rì rả rích mãi không thôi!”  

      Thôi đừng mưa nưa mưa ơi!” Câu thơ nghe buồn đến não ruột khi tác giả liên tưởng đến những số phận không may mắn của con người:

                    Thương bao hạt vỡ nổi trôi phập phồng”

    Thẩm Bình thương bao hạt mưa vỡ ra rồi nổi trôi thành bong bóng phập phồng, rồi lại tan như bóng xà phòng, hay chị thương cho những số phận con người không lấy gì may mắn. Đọc đến đây ta thấy rõ ràng Thẩm Bình viết cho số phận người con gái. Câu thơ đầy tính nhân văn, giọng thơ đầy chia sẻ. Một lối viết nhân cách hóa, một lối so sánh khéo léo. Đời người con gái mười hai bến nước, biết bến nào đục bến nào trong mà chọn, chỉ như hạt mưa sa, sa đâu ấm đấy, không may mắn phải chịu cảnh lỡ làng cũng đành cam chịu. “Thương bao hạt vỡ” Câu thơ như than vãn mà xé lòng xé ruột, có nỗi đau nào bằng khi cuộc đời người thiếu phụ đang sống bình yên hạnh phúc mà bị đứt gánh giữa đường, để rồi cam chịu cảnh phòng không lạnh lẽo, cô đơn thăm thẳm trong bốn bức tường, không người chia sẻ. “Hạt vỡ nổi trôi phập phồng” lại một ý nữa, Cuộc đời người phụ nữ thật khổ, chịu bao những thiệt thòi, mất mát, có phải chăng là những hạt vỡ chăng? Qua từ “phập phồng” ta thấy cái đoạn trường của người thiếu phụ. Bước đi bước nữa ư? Đi tìm một hơi ấm để an ủi cuộc đời, để quên đi những đau buồn chăng? Liệu bến mới có làm nguôi ngoai nỗi khổ không? Liệu có hết “nổi trôi” không? Chưa hết. “Trời mưa bóng bóng phập phồng / Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?”. Câu thơ chứa đựng bao câu hỏi, bao dằn vặt, chỉ một câu bát mà chứa bao hàm ý, đây chính là giá trị nghệ thuật của câu chữ, và cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ. Thẩm Bình đã biến giọt mưa thành những giọt sầu khiến người đọc phải trạnh lòng:     

                    “Giọt sầu se sắt tơ lòng

              Giọt đau nức nở người trong cõi mồ”.

     Thật vậy giọt mưa hay giọt sầu để lòng người se sắt lại. Nguyễn Du viết: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” Dù mối tình đầu hay tình cảm vợ chồng còn vương mãi trong  tim người phụ nữ. “Một ngày cũng nên tình nên nghĩa” kia mà quên làm sao được, kể cả khi đã bình yên nơi bến mới. Tiếng mưa tí tách rả rích hay tiếng lòng người thiếu phụ suốt nửa cuộc đời chỉ biết nằm nghiêng như nhà thơ NT cũng đã rất thông cảm và chia sẻ với những người vợ liệt sĩ:

      Nằm nghiêng, mình ở trong gương

Bao năm vẫn thế mình thương lấy mình

     Mơ màng, rạng ánh bình minh

Đã đôi chim sẻ dụ tình đuổi nhau.

     Khổ lắm chứ! “Ai nằm trong chăn mới biết chăn có rận” người ở lại thì “đau nức nở” Còn người đi xa có thấu hiểu cho chăng, những giọt mưa, những giọt sầu có thấm sâu vào đất nâu nứt nẻ, có thấu hiểu nỗi đau của người ở lại. Chắc “người trong cõi mồ” cũng không an lòng nơi chin suối. Trời càng mưa càng “se sắt tơ lòng”.

     Bài thơ Tứ tuyệt lục bát chỉ 4 câu nhưng đã chứa đựng bao tình cảm hàm xúc của người phụ nữ. Với cách sử dùng ngôn ngữ trong thơ rất đời thường, cách so sánh nhân cách hóa mà không trìu tượng, dễ hiểu, gây cảm xúc mạnh cho người đọc. bài thơ bố cục rất mạch lạc chặt chẽ, cách nén câu nén chữ để thể hiện đúng luật của thơ tứ tuyệt: Mở, thực, luận, kết mà vẫn biểu cảm được hết ý và tứ thơ. Đây là dấu chấm son của nữ sĩ thẩm Bình.Chúc chị có nhiều thành công trong sự nghiêm văn chương.

 

                                                           Hà Nội ngày 14.12.2018

                                                                        

                                                              Nghiêm Thản

 

 

 

CÁI ĐẸP HỒN HẬU CỦA CÔ GÁI THỊNH LONG QUA THI PHẨM “TRẮNG TƯƠI THỊNH LONG” CỦA PHAM TÂM DUNG

 

TRẮNG TƯƠI THỊNH LONG

 

Ta về với biến Thịnh Long 
Ngất ngây gió hát, trắng bông mây trời 
Yếm trần, thể ngọc trắng tươi 
Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.

 
Sóng xô, sóng níu, sóng đè 
Sóng sao không đẩy em về phía tôi?
Bồng bênh giỡn sóng em cười 
Xin em hãy nghé sang tôi một lần!

 

Tôi tìm trên cát dấu chân 
Vô tình sóng lướt tội thân dã tràng 
Trắng tươi - Trắng đến mơ màng 
Mình tôi với biển lang thang. . . đi về...

 

                                  Phạm Tâm Dung

 

 

Lời bình của Ngiêm Thản

 

      Cũng là lang thang trên facebook để tìm những hạt vàng trong cát. Cũng là tính tò mò tôi tìm đến trang “Thi nhân miền Cổ tích”. Sao lại gọi là “miền cổ tích”, nghe là lạ. Nói đến cổ tích phải là cái gì đó rất xa xưa, có thể đi vào huyền thoại, nhưng đây lại là “miền”, đã là miền ắt phải là một địa danh nào đó. Không biết ai đó đã đặt ra cái tên này nghe thật thú vị và có cái gì đó rất sâu lắng. Nghe tưởng như vô lý, thì ra đây là nơi hội tụ của các thi nhân. Một mảnh đất rất thơ mộng có hai cây gạo, và cây si già hàng trăm năm tuổi, có chiếc “thuyền thơ” ở Thái Bình, là nơi các thi nhân đến để giao lưu thơ, là nơi có những thi nhân bao đời sinh cơ lập nghiệp, đã gắn liền với từng tế bào trong cơ thể họ, là nơi không bao giờ và không bao giờ có thế quên được. Vật đổi sao dời! Nay họ không ở nữa chỉ còn là chiếc “thuyền thơ” neo đậu. Trên trang này tôi bắt gặp bài thơ của một thi nhân miền cổ tích Phạm Tâm Dung. Nơi chôn nhau cắt rốn của chị lại là miền cổ tích. Nhưng chị không viết cho miền cổ tích mà chị viết cho một vùng miền khác, đó là biển Thịnh Long Hải Hậu Nam Định. Một thi phẩm có cái tên rất lạ “Trắng tươi Thịnh Long” bằng 12 câu lục bát mộc mạc, giản dị. Tác giả phải là người giầu cảm xúc lắm. Đứng trước biển Thịnh Long mà chị thấy cái đẹp đến thơ mộng, đến ngây ngất:

                  “Ta về với biến Thịnh Long 
            Ngất ngây gió hát, trắng bông mây trời”

      Nhạc điệu của câu câu thơ nghe du dương êm dịu, nhẹ nhàng như một bản tình ca, còn có cái gì đó thèm ước khát khao, mơ mộng… Đọc hai câu mở đầu của bài thơ, nếu ai chưa đến biển Thịnh Long cũng phải đến một lần cho biết.  Trước cảnh đẹp mê hồn ấy tác giả không bỏ sót một chi tiết nào, chị còn thấy cái đẹp của những người đang sống còn lộng lẫy hơn:   

                 “Yếm trần, thể ngọc trắng tươi 
             Biển ơi! Sao cứ chẳng thôi vỗ về.”

      Khổ đầu tiên đã là một bản nhạc hay rồi còn là một bức tranh lung linh huyền diệu. Giữa cái ngân nga của “gió hát” cái thanh khiết của “trắng bông mây trời”, chị thấy “một vùng như thể cây quỳnh cành giao” toả ra thơm nức, chị còn thấy như “sẵn đúc một toà thiên nhiên” trước biển Thịnh Long. Bút pháp của chị làm cho giới mày râu phải ngây ngất, ngất ngây, phải dừng lại mà mường tượng, mà ngẫm nghĩ, đến mức hờn ghen cả với biển. Thế mới thấy được tình yêu quả là vô cùng mãnh liệt. chỉ mới thấy ngọc thể nõn nà, trong trắng và cái “bồng bênh giỡn đùa” tinh ngịch trong sáng cùng nụ cười tươi tắn của người phụ nữ đã mang lòng yêu rồi, đã phải lòng rồi, đã khát rồi, đã ghen rồi. Cái nhân vật “tôi” vô hình trong thơ của Phạm Tâm Dung như gào lên “Biển ơi! Sao chẳng thôi vỗ về” một cái ghen vô cớ thật đáng yêu, giống như cái lẳng thơ của Thị Màu mà ai cũng thích. Sóng là vật vô chi vô giác còn được cho vỗ về vuốt ve em. Còn mình thì không. Tiếp đến là những câu thơ mang đầy kịch tính, chị bắt đầu đẩy tứ thơ lên đến cao trào:

                  “Sóng xô, sóng níu, sóng đè 
            Sóng sao không đẩy em về phía tôi?”

      Nhịp điệu thơ bắt đầu dồn dập hơn, chị cắt nhịp hai hai, để tạo câu thơ như từng lớp, từng lớp sóng cứ dồn dập, dồn dập hơn lên “Sóng xô, sóng níu, sóng đè” như tình yêu càng thêm bốc lửa. Cái ghen vô cớ bắt đâu trỗi dậy mạnh hơn, thấy sóng như kẻ tình địch đã xô, lại níu, đau hơn nữa còn đè lên ngọc thể của người mình yêu. Câu sau giọng điệu như dịu lại vì người đang yêu đã nhận ra rằng sóng vẫn chỉ là sóng. Sao tình yêu không đến với tôi, “Sóng sao không đẩy em về với tôi”. Ta cũng có thể suy luận thêm hình ảnh sóng lại là người chồng cô gái thì càng kịch tính hơn.

       Có thể nói đây là một câu thơ tài hoa. Biết đâu Phạm Tâm Dung lấy cái cớ mượn sóng và em để nói cái rất thật ở ngoài đời. Sắc đẹp như thượng đế của đàn ông, nhân vật em trong thơ Phạm Tâm Dung hay cô gái Thịnh Long như một thiên thần:

                  “Bồng bênh giỡn sóng em cười 
            Xin em hãy nghé sang tôi một lần”

     Trong lúc “bồng bênh giỡn sóng” ấy, thì hoa nở trên môi. Chị đã nói hộ với giới mày râu rằng “Xin em hãy nghé sang tôi một lần”. Chỉ cần “nghé” thôi, một cái liếc nhẹ nhàng thôi để được bốn mắt gặp nhau, để hiểu nhau qua anh mắt cũng đã sung sướng lắm rồi, vì đó là cửa sổ của tâm hồn. Ở đây ta mới thấy rõ ràng là Phạm Tâm Dung đã biết chọn lọc ngôn ngữ, chứ không phải viết trong vô thức. Qua những cụm từ “bồng bênh” “nghé”. Sao chị không viết là “bồng bềnh” hay “bềnh bồng” hay là “lênh đênh”… Xét về ngữ nghĩa đều giống nhau cả mà chị chọn lấy từ “bồng bênh” bởi nghe như có cái gì đó khác hơn, một động thái của trò chơi tinh ngịch, khoẻ khoắn, vui vẻ, lành mạnh và rất hồn nhiên, chứ không phải “bồng bềnh” đồng nghĩa với “nổi trôi”, nếu vậy thì ý thơ sẽ rẽ sang một hướng khác. Còn từ “nghé” thì sao? Sao tác giả không dùng từ “ghé” cho nọn nghĩa hơn. Ở đây ta phát hiện thấy Phạm Tâm Dung đã thu nhập được cái tinh hoa của cụ Nguyễn Du, “khách đà lên ngựa người còn nghé theo”. Đó là cái hào hoa phong nhã, lịch thiệp, cái rất con gái của người phụ nữ thể hiện đủ tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh”. Tác giả thật thơm miệng khi dung từ “nghé”. Phạm tâm dung là người đa sầu đa cảm chăng. Thơ chị như chia sẻ nỗi lòng với những người có mối tình đơn phương:

                  “Tôi tìm trên cát dấu chân 
            Vô tình sóng lướt tội thân dã tràng 
                  Trắng tươi - Trắng đến mơ màng 
            Mình tôi với biển lang thang. . . đi về”

     Vậy là tác giả đã xây dựng một cuộc tình đơn phương nhưng lại đẹp bởi man mác buồn mà không đau khổ vẫn “trắng tươi” như biển Thịnh Long, “trắng tươi” như cô gái Thịnh Long. Hình ảnh con sóng biển xoá đi con dã tràng nhưng không xoá đi được tình yêu của người đang yêu vẫn “Trắng tươi - trắng đến mơ màng”. Cho dù biển xoá đi cả dấu chân em trên cát.

     Khổ thơ cuối cùng chúng ta lại thấy tác giả lập lại lần thứ 3 từ “trắng tươi”. Tên bài chị đã nói đến cái đẹp đến “trắng tươi” của biển Thịnh Long, lần thứ 2 chị nhắc đến cái “trắng tươi” của người con gái Thịnh Long. Lần 3 chị nhắc đến cái “trắng tươi” của cả biển Thịnh Long đến con người Thịnh Long. Từ “trắng tươi” là từ ta thường nói ra từ cửa miệng hằng ngày, càng không phải mỹ từ, ta lại thấy vừa quen vừa lạ, quen vì ngôn ngữ ta đang dùng thường ngày, lạ vì một địa danh mà lại “trắng tươi”. Tất nhiên, những người có nghề trong thơ họ sẽ hiểu ngay đây là cách viết ảo, hư mà thực. Mà có tả người con gái cũng chưa mấy ai nói là “trắng tươi”, chỉ một nét chấm phá thế thôi cũng đã làm câu thơ vừa sạch sẽ lại vừa đẹp. Chị viết cho người con gái Thịnh Long đẹp là thế. Tất cả những đường cong tuyệt mỹ, những quyến rũ giới mày râu được phát tiết ra từ cái “trắng tươi” của người phụ nữ, đẹp như một bông hoa vừa trong trắng, quyến rũ lại vừa tươi tắn hồn hậu.

     Rất cảm ơn nhà thơ Phạm Tâm Dung với bài thơ “Trắng tươi Thịnh Long”. Một bài thơ tình hay, chị đã chạm tới nỗi buồn của những ai có mối tình đơn phương. Cũng rất có thể còn là nỗi đau nữa, rất có thể người đang yêu lại là kẻ thứ ba. Chứng tỏ rằng Phạm Tâm Dung đang viết cái “tôi” mà lại thoát ra được để đi đến cái “ta”. Bài thơ sẽ đi cùng năm tháng, bởi ta đọc lúc nào cũng đúng, gắn vào thời điểm nào cũng đúng. Cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ của chị là sự sáng tạo, làm mới câu thơ từ những ngôn ngữ bình thường. Bài thơ đầy tính nhân văn, bởi tình yêu không bao giờ có lỗi, đã ca ngợi cái đẹp của con người, của non sông đất nước. Quả là tôi đã tìm được vàng trong cát. Chúc chị thành công trong sự nghiệp văn chương.                                                          

BÀN VỀ TỪ “HOANG HOẢI"

 

     Ngôn ngữ của loài người luôn luôn được phát triển và mất đi. Một ngôn ngữ mới được cấu thành hoàn thiện phải mất rất nhiều năm, có khi hàng thế kỷ mới hoàn thiện. Thí dụ: từ “cây” để chỉ chẵn 1 chục như cây vàng, cây thuốc lá… Hoặc từ “ngon” để chỉ một người con gái xinh đẹp nết na, đến bây giờ vẫn chưa được hoàn thiện, vì dùng từ này người ta vẫn thấy có cái gì chưa ổn, vẫn còn như xấc xược. Và một số từ cổ cũng phải mất nhiều năm mới dần dần mất hẳn đi như từ thiếp, thê…

     “Hoang hoải” là một từ mới không có trong từ điển tiếng Việt, mang tính trìu tượng, đang dần dần được hoàn thiện, trở thành một trạng ngữ. Thí dụ như từ “thao thiết” bây giờ đã tương đối hoàn thiện. Nhiều các nhà thơ nhà văn cứ thích khám phá tìm những ngôn ngữ mới để thể hiện mình, điều đó rất tốt vì đó là sự sáng tạo. Nhưng nhiều người lại dùng không đúng chỗ cho nên làm mất sự trong sáng của tiếng Việt.

     Dưới đây tôi xin được phân tích mổ xẻ tách rời hai từ ra để hiểu nghĩa từng từ một rồi lại ghép vào với nhau qua từ điển Hán Nôm để chúng ta thấy khi nào ta cần dùng từ “Hoang hoải” và dùng thế nào để diễn đạt được tâm trạng của mình trong tác phẩm để khỏi sáo rỗng, hoặc độc giả không biết mình biểu cảm cái gì:

(Hoang): Chửa hoang; hoang vắng, hoang vu; huênh hoang

(Hoang): hoang mang, vô định, hoang tưởng, mất bản lĩnh.
(Bải hoải): Bải hoải, mệt mỏi, rã rời. Hai từ này ghép lại với nhau không có trong từ điển tiếng việt, nếu ghép lại với nhau (hoang hoải) ta có thể hiểu:

     - Nhân vật ấy, con người ấy rất hoang mang và mỏi mệt, không tìm ra được giải pháp nào hay nhất để giải quyết vấn đề cần thiết, vì tinh thần rất hoang mang, thể xác thì bải hoải, mệt mỏi

     - Không gian ấy thật hoang vu, rộng lớn như giữa đại dương hay trong khu rừng rậm mênh mông bao la, mơ hồ, vô định, không lối thoát. Tinh thần thì hoang mang hoảng loạn, thể xác thì mệt mỏi bải hoải rã rời chân tay.

     - Con người ấy huênh hoang võ mồm, chém gió nhưng bên trong tinh thần thì bạc nhược, bải hoải, mỏi mệt

     - Cô ấy vì chửa hoang nên tinh thần bất ổn nên rất hoảng loạn, bất an, cơ thể thì suy sụp.

      Tóm lại ta định nghĩa thế nào cho đúng. Có thể là tâm trạng vừa hoang mang sợ hãi, hoảng loạn, không bản lĩnh, hoang tưởng, vừa mệt mỏi cả tinh thần lẫn thể xác. Hoặc là một khung cảnh vừa hoang vu, mênh mông, vô định, vừa nói đến con người mệt mỏi rã rời không biết đi đâu về đâu.

      Theo ý của riêng tôi, từ “hoang hoải” để đi đến hoàn thiện thì nó phải là trạng ngữ chỉ trạng thái, tâm tư tình cảm của một con người. Thí dụ ta có thể dùng: “Chiều nay tôi vô cùng hoang hoải”. Chứ một không gian, thời gian không thể dùng được từ này như có người đã dùng: “Chiều nay trên cánh đồng hoang hoải” hoặc “Giữa cánh rừng hoang hoải”, “Mênh mông hoang hoải biển chiều hôm”… hoàn toàn vô nghĩa.

 

                                                           Nghiêm Thản

 

 


TA HÃY LẮNG NGHE NHỮNG ÂM THANH KHI IM LẶNG CỦA NHÀ THƠ NGHIÊM THẢN QUA THI PHẨM “KHI TA IM LẶNG

 

KHI TA IM LẶNG

 

Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian đang thở…

 

Khi ta im lặng lúc sớm mai
Tiếng chim hót trong hơn ta thấy
Những cánh hoa khẽ động trên đài
Nụ mở, khoe sắc, thả hương …
Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau đớn
Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc xanh
Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm non.

 

Khi ta im lặng lúc ban trưa
Tiếng võng đưa kẽo kẹt
Tiếng ồn ào chật chội
Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen...

Khi ta lặng im lúc về chiều
Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió
Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền
xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm
Tiếng mầu tím ... thủ thỉ gọi tình yêu.

 

Đêm
Khi ta trầm tư sâu lắng
Văng vẳng tiếng rao đứt đoạn giấc nồng

Bé bông ngủ ngon tiếng thở đều đều
Trong lều tranh dựng tạm
bác xế - lô đang mơ những chuyến hàng
Chiếc đồng hồ gõ mạnh vào thời gian
Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột
Tuột khỏi tay! Lật mình người quả phụ thở dài
Trong suốt tiếng hạt mưa rơi
thấm sâu vào đất sâu nứt nẻ
Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi đá
chạm tới cội nguồn.

 

Ta hãy lặng im, lắng nghe nhịp sống
nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ
Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng người.

 

                                     Nghiêm Thản 

 

 

Lời bình: Xuân Hiến

 

     Trong sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống nơi phố phường nhiều khi những thanh âm trong trẻo dường như bị khỏa lấp bởi vậy tâm hồn ta có lúc hụt hẫng đi vào trạng thái trầm cảm. Vào một lúc nào đó chúng ta hãy im lặng để lắng nghe tiếng cuộc sống, tiếng thời gian thậm chí cả tiếng nhịp tim ta đang hướng ra chân trời rộng mở như lời RalphWaldo Emer: “Hãy im lặng và chúng ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của thánh thần”. Nhà thơ Nghiêm Thản cũng mang theo lời khuyên tương tự trong bài: “Khi ta im lặng”, một bài thơ giàu tính triết lý và có chiều sâu về tầng ý nghĩa. Mở đầu là hai câu thơ như lời đề từ giữ nhịp cho mạch thơ tuôn chảy:
          “Khi ta lặng im, lắng nghe nhịp sống

          Nghe tiếng thời gianđang thở…”

     Nhịp sống và thời gian giao thoa để tạo nên bao điều kỳ diệu. Thời gian chuyển động và sự vật cũng hiện lên rực rỡ, đầy đủ sắc màu vốn có để hồn ta trầm lắng trong sự dịu ngọt, êm đềm. Hãy cùng tác giả “ Khi ta im lặng” đi vào thời điểm ban mai để cảm nhận sự chuyển động không ngừng:

          “Khi ta im lặng lúc sớm mai

          Tiếng chim hót trong hơn ta thấy

          Những cánh hoa khẽ động trên đài,

          Nụ mở, khoe sắc, thả hương …

          Tiếng cành cây tích nhựa nứt ra đau đớn

          Chồi non nhú khỏi cành thành lộc biếc xanh

          Tiếng hạt cựa mình, tách vỏ. Mầm non.”

     Ở đây có những âm thanh cụ thể đó là “Tiếng chim hót”, “tiếng hạt cựa mình”, ngoài ra còn có những âm thanh mơ hồ như tiếng của “cánh hoa” đang nở, đang tỏa hương, rồi tiếng của cành cây, chồi non... đang cựa quậy. Trong sự tĩnh lặng của “Sớm mai” tiếng hót của chú chim cũng “trong hơn”, có phải nội lực sau một đêm nghỉ ngơi bây giờ mới được phát tiết ra? Hay buổi sáng trong lành nên mọi sự vật trở nên đẹp hơn trong sáng hơn. Hoa nở vào buổi sáng cũng vậy vừa “khoe sắc” vừa “thả hương” làm đẹp cho đời. Tác giả còn đem đến sự phát triển không ngừng từ việc “cành cây tích nhựa” để thành “chồi non”, “lộc biếc”. Sự sống ban mai thật đẹp qua cái nhìn, sự lắng nghe và cảm nhận bằng tâm hồn nghệ sĩ, tôi rất thích cách chuyển đổi của anh từ mùi vị của hoa thoảng vào trong gió cũng trở thành thanh âm như mơ hồ mà rất thật. Điều này giống với cách biểu hiện của nhà thơ Huỳnh Gia Trọng:

          "Có những lúc giật mình tỉnh giấc giữa khuya

          Nằm im lặng nghe tiếng rì rào của gió

          Xô những chiếc lá khẽ khàng rơi trên lối nhỏ

          Ngoài kia …

          Sương lạnh trắng khung trời".

                                       (Khúc tình ca không tên)

     Dòng thời gian như dòng sông vẫn êm ả trôi, đến nơi thác ghềnh thì cất lên âm thanh ồn ào, sôi động giống như thời gian ban trưa của nhà thơ Nghiêm Thản:

          "Khi ta im lặng lúc ban trưa

          Tiếng võng đưa kẽo kẹt,

          Tiếng ồn ào chật chội,

          Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen ..."

     Một điều đã trở thành quy luật, ta càng im lặng thì sự cảm nhận tiếng động càng lớn, bởi vậy tiếng “kẽo kẹt” võng đưa cứ như tiếng vọng tức tưởi dội vào lòng, tiếng võng còn đưa ta đến không khí oi nồng buổi trưa ở một miền quê có lời ru dịu ngọt, có tuổi thơ êm đềm với tâm hồn đằm sâu trong kỷ niệm. Rồi những “Tiếng ồn ào” khiến cho không gian trở nên “chật chội” đây là cách thể hiện mang được chiều sâu suy tưởng, còn nhiều điều uẩn khúc chia chưa sẻ được. Người đọc không chỉ cảm nhận được tần số âm thanh vừa hỗn độn vừa quá lớn mà còn cảm nhận không khí ngột ngạt vào thời điểm ban trưa. Câu kết cuối khổ “Dòng đời ngược xuôi hối hả đua chen ...” Đây  là lời nhận xét tinh tế của tác giả, với ba dấu chấm cuối câu anh muốn dành cho độc giả suy nghĩ tiếp. Hơi thở cuộc sống bao giờ cũng là chất liệu quý giá để văn nghệ sĩ tìm kiếm khai thác, bài thơ “Khi ta im lặng” cũng vậy trong không gian và thời gian buổi chiều, nhà thơ Nghiêm Thản đã dồn nén sự vật, bởi vậy ta cảm nhận được sức sống đang trào dâng và nóng hổi tính hiện thực:

          "Khi ta lặng im lúc về chiều

          Tiếng sáo diều vu vơ gọi gió

          Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền

          Xao xác gọi nhau tìm về tổ ấm

          Tiếng mầu tím… thủ thỉ gọi tình yêu"

     Năm câu thơ chỉ có một câu “im lặng” còn để bốn câu lên tiếng. Ta hãy lắng nghe giữa bầu trời xanh có âm thanh “Vu vơ” của tiếng sáo diều “gọi gió”. Qua từ "Vu Vơ" ta mới thấy cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ của tác giả rất chính xác. "Vu vơ" nghĩa là vô định, bâng quơ, không đâu, không có múc đích, không chỉ rõ một vấn đề cụ thể nào… Chỉ là "vu vơ". Nhưng lại không "vu vơ" chút nào bởi diều và gió vốn là bạn đồng hành, muốn tấu lên những bản nhạc của một miền quê yên ả. Vì vậy lời “gọi gió” quả là  lôgic. Tuy vậy chỉ có cái nhìn tinh tế của thi nhân mới nêu ra được. Có “Tiếng chim vỗ cánh tập chuyền dù khẽ khàng nhưng vẫn ngân vang, náo nức và cả tiếng “gọi nhau về tổ ấm đem đến sự mơ ước đoàn tụ ấm êm sau một ngày bươn trải. Ta hãy lắng nghe âm thanh ngọt ngào của tình yêu lứa đôi “thủ thỉ”. Đây có lẽ là thanh âm trong trẻo bay bổng nhất bởi đó là lời của trái tim, lời của trai gái trong khúc hoan ca, lời của tình cảm kết tinh thành mật ngọt, yêu sao “Tiếng màu tím...” tiếng của những mối tình chung thủy.

      Khi màn đêm buông xuống những tất cả như lắng xuống. chỉ còn thấy những nốt nhạc của thiên nhiên, và những âm thanh không mong muốn. Đó là tiếng rao “Văng vẳng” của người bán hàng trong việc mưu sinh cơm áo, dù ai có “đứt đoạn giấc nồng” cũng xin cảm thông với người lao động. Câu thơ đầy tính nhân văn, đầy sự chia sẻ. Ta bắt gặp “tiếng thở đều đều” của “Bé bông” báo hiệu giấc ngủ ngon, sâu của một sinh linh bé nhỏ. Người lao động như “Bác Xế- lô “ cũng đang có những giấc mơ đẹp: Có nhiều chuyến hàng để tăng thêm thu nhập, đó là giấc mơ bình dị nhưng vô cùng cao cả, đúng như lời Dale Camegie nói : “Cuộc sống làm bạn buồn chán ư? Hãy lao vào công việc bạn tin tưởng bằng tất cả trái tim, sống vì nó, chết vì nó, và bạn sẽ tìm thấy thứ hạnh phúc tưởng chừng như không bao giờ đạt được”. Trong đêm khuya ngoài tiếng “thở dài”của người quả phụ tác giả còn sử dụng hình ảnh “lật mình” hai yếu tố kết hợp lại tạo ra nỗi buồn khôn nguôi, sự cô đơn, trăn trở… Đặc biệt cụm từ  Tuột khỏi tay!”  được đảo lên đặt ở vị trí đầu để nhấn mạnh ý: Hạnh phúc đã cách xa tầm tay người thiếu phụ và đó là nguyên nhân của sự trằn trọc khó ngủ cùng với tiếng thở dài hòa vào lời ca buồn “Rỉ rả, nỉ non, tiếng côn trùng não ruột”. Ta hãy lắng nghe “hạt mưa rơi”, “trong suốt”, đây có phải giọt mưa của đất trời hay giọt tâm tình mà thi nhân đang hoài vọng để “Thấm sâu vào đất nứt nẻ”. Câu thơ đầy tính chia sẻ. Đọc đến đây tôi chợt nhớ đến bài thơ “Giọt nhớ”  của nữ thi sĩ Hạ Uyên Chi có đoạn:

          "Nghe rất nhẹ mùi thơm nồng của đất

          Thoảng dịu dàng khi mưa đổ vai anh

          Giọt mưa tuôn run rẩy đọng lá cành

          Lung linh chợt vỡ òa trong tia nắng"

     Hạt mưa rơi” của Nghiêm Thản hay “hạt mưa đổ” của Uyên Chi rất đẹp lấp lánh như những vì sao mà ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, đúng như lời của George Sand: “Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con người”. Trong màn đêm tĩnh lặng ta nghe được:

          "Khe khẽ lá rơi, chạm vào sỏi đá

          chạm tới cội nguồn"

     Hai câu thơ giàu tính hiện thực nhưng mang được màu sắc của văn học nghệ thuật. Tác giả như sợ chiếc lá rơi thôi cũng đụng đến mồ mả đất cát, đụng đến tổ tiên ông bà ông vải, là những anh linh của tổ tiên đang yên giấc ngàn thu. Người đọc có thể nhìn sự vật đa chiều, tác giả đã làm được điều mà một triết gia cho rằng: “Không có thi nhân, không có nghệ sĩ, con người sớm chán ngấy sự đơn điệu của tự nhiên” Ba câu thơ cuối vượt lên trên lời khuyên, đặt ra một vấn đề mới:

          "Ta hãy lặng im, lắng nghe nhịp sống

          Nghe tiếng thời gian trôi vào quá khứ

          Lặng im. Ta sẽ nghe rõ tiếng người".

     Đây là lối kết mở, đưa mọi người tới những triết lý giản dị mà sâu sắc, hãy lắng nghe đồng loại để hiểu sâu rộng hơn cuộc sống, để rồi ta khỏi phải nuối tiếc khi thời gian đã trôi vào quá khứ. “Lặng yên ta sẽ nghe rõ tiếng người”, câu thơ vô cùng ám ảnh cho người đọc, như bắt người đọc phải lặng yên mà nghĩ ngẫm. Bởi nếu không lặng yên, không nghe rõ được tiếng người thì là tiếng gì? Câu thơ mang đầy tính triết luận, bởi tiếng nói của con người là tiếng nói của nhân loại, mang đầy màu sắc của cuộc sống.

      Bài thơ “Khi ta im lặng” thuộc dòng thơ triết luận, từ điểm sáng im lặng để ta nghe, ta thấy bao điều trong cuộc sống giống như một lăng kính hội tụ muôn màu lấp lánh. Được viết theo thể tự do, không chú trọng nhiều đến hiệp vần nhưng bài thơ vẫn mượt mà bay bổng, giai điệu uyển chuyển theo thời gian không gian của bài thơ. Có lẽ đây là khởi sự từ tiếng nói tâm hồn của một thi nhân có nhiều vốn sống, đã từng bươn trái, đã từng gai góc. Bài thơ tuy hơi dài nhưng không hề dàn trải, bố cục rất mạch lạc, những âm thanh được thoát khi im lặng từ sớm, trưa, chiều, tối rõ ràng. Bài thơ còn là sự chia sẻ cùng độc giả

     Bạn bè xa gần rất mừng cho thi nhân Nghiêm Thản, anh viết khỏe thơ thấm đẫm chất lý trí, biện luận, giàu tính hiện thực, cách dùng ngôn ngữ rất đời thường dễ hiểu như muốn gửi những thông điệp của mình để cùng chia sẻ với bạn đọc. Nhưng vẫn giữ được sự lãng mạn từ trái tim đa sầu, đa cảm. Gần đây tác giả có nhiều tìm tòi sáng tạo phát hiện nhiều tứ thơ độc đáo. Mong anh không ngừng phát huy khả năng đó.

 

                                                  Hà Nội tháng 8/2014

                                                             Xuân Hiến

 

 

 

CHÍN VÍA CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HAY NHỮNG MẢNH ĐỜI KHÔNG MAY MẮN TRONG TẬP THƠ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” CỦA MINH HIỀN

 

     Đây là tập thơ thứ hai sau tập “Tháng ba”của Minh Hiền Với tập thơ đầu tay chị viết sâu nặng về tình cảm gia đình về cha về mẹ, về quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì tập thơ “CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG” bút pháp của tác giả lại như một ống kính tiềm năng, nhìn ra xã hội, nhìn về quê hương đất nước, nhìn tới biển đảo, và nhất là nhìn xuyên thấu hết tất cả những góc cạnh  cuộc đời của những người phụ nữ phải âm thầm cam chịu đau khổ để dành hạnh phúc cho con cháu mình.CHÍN NGỌN GIÓ ĐỒNG hay là chín bậc tình yêu, và cũng là thân phận của những người phụ nữ không may mắn.

     Còn với tình tình yêu đôi lứa chị nhìn thấy cuộc đời đẹp như mơ:

           Nếu khao khát, chớ hững hờ

      Vòng tay ấm áp nối bờ yêu thương

           Tím mùa giăng lối bờ sương

      Khói lam lan tỏa chín phương trời chiều”.

                                                  (Trăng cô đơn)

Chị viết như chính chị đang yêu, một tình yêu cháy bỏng luôn nhớ đến vòng tay ấm áp bên bờ yêu thương. Tình yêu đẹp là vậy, nhưng đôi lúc họ vẫn ngờ vực chưa hẳn tin tưởng, sợ như sắp tuột khỏi tay nhau, và họ nói với nhau những lời ân ái:

Anh biết đâu, những lúc buồn em khóc

Thổn thức trong đêm hay tiếng lòng nức nở

Em lang thang từng góc đường nhung nhớ

Nhé đừng buồn, không một phía đâu anh”.

                                                  (Không phải một phía)

     Không phải một phía” đồng nghĩa với từ hai phía, mặc dù một trong hai phía yêu nhau mà không nói nên câu, không nói được thành lời. Đó cũng là một trong tứ đức (Công, dung, ngôn, hạnh ) của người phụ nữ Việt nam, của người Á Đông. Yêu thì rất yêu nhưng nói được lời yêu không dễ chút nào. Thơ của chị viết như nó hộ những người đang yêu, chị hóa thân vào người đang yêu để nói những lời yêu như hờn như trách:

“Anh đổi màu em, bằng bẩy sắc cầu vồng

Vô tình thôi, nụ cười em biến mất

Tuột nhau rồi, tím chẳng tròn trong mắt

Tím vẫn là màu tím của riêng em”.

                                                 (Mầu tím riêng em)

      Có lẽ tác giả là chuyên gia của tình yêu, nên thơ của chị mới mượt mà êm ái như đánh thức con tim. Và không ít người “lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu”, để rồi hối tiếc cuộc đời mình, để rồi ‘quá nửa cuộc đời vẫn chửa biết yêu”. Nhưng viết về những cuộc tình không trọn vẹn thì ống kính của chị như thấu hiểu được lòng người, xót xa cho chị em phụ nữ như những giọt mưa sa, như những con đò, như “chín ngọn gió đồng” mộc mạc chân chất quê mùa:

           “Đò không ai bỏ bến sông

      Nhạc tre rót khúc thinh không vào lòng

           Vàng hoe chín ngọn gió đồng

      Thương con đò nhỡ cứ chòng vòng trôi”.

                                                 (Đò không)

     Bài thơ “Lệch” là những câu thơ tài hoa, tác giả đã khắc họa nên một cuộc tình không cân xứng, một cuộc tình không trọn vẹn:

            Sợ rằng đêm vẫn khoác đen

      Sợ ngày nắng rát để duyên cạn mùa

            Sợ mưa bong bóng cứ đùa

      Sợ giông hờn gió cứ ùa vào tôi

            Lệch mùa trăng sẻ làm đôi

      Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng”.

                                             (Lệch)

Một khi tình yêu không còn thấy những tín hiệu đồng điệu nữa, thì làm sao mà dung hòa được với nhau, đi tìm xuôi thì toàn thấy ngược, muốn lên cao thì toàn thấy thấp, chỉ thấy những bi đát trong cuộc đời. Họ sợ cuộc đời cứ tối tăm mãi, họ sợ những cơn bão lòng cứ vô tình ập đến, bởi hai người “như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Cũng là tình yêu, nhưng giữa tình cảm lứa đôi và tình cảm vợ chồng khác nhau nhiều lắm. Là tình yêu chưa đến hôn nhân họ có thể trút bỏ tất cả cho nhẹ lòng, nhưng đã là vợ chồng thì không dễ dàng gì, cố sống được với nhau cũng chỉ là cái vỏ bọc của tình yêu

            “Còn một chiếc ảnh là chung

      Tôi đem cất giữ nhớ nhung bào mòn

            Ấy là cái lúc còn son

      Tươi vui hồng đỏ đẹp giòn tình ta”.

                                                          (Có - không)

      Viết về những cuộc tình éo le ngang trái không trọn vẹn, nhà thơ Minh Hiền cứ như người trong cuộc, “đi thì cũng dở ở không xong”, còn có bao nhiêu điều dàng buộc. Chị cảm thông và xót xa cho những người phụ nữ lỡ bước sa chân phải âm thầm gánh chịu bao nhiêu đau khổ về mình để rồi:

                      Cạn khô nước mắt thu rồi

      Em ngồi đếm đoạn một thời ấy… xanh

            Rậm rì mấy đám cỏ tranh

      Vênh vang quăng quật một nhành hoa lan

            Em ngồi đếm cái đa đoan

      Thẳng lưng mà cõng trái ngang cuộc đời”.

                                                      (Cuộc đời)

      Những người phụ nữ kia đã khóc hết nước mắt rồi. Có con chim nào muốn giam hãm mãi trong lồng, có con người nào họ muốn quanh quất trong bốn bức tường, dù đó là lầu son gác tía. Tất cả đều muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn mà tập tục lễ giáo phong kiến còn để lại, gieo vào đầu họ; để cuộc đời họ phải gánh chịu:

                “Lẻ chiều rong ruổi phù vân

Bốn bề gió nát vũ vần về đâu?

      Vượt rào lại sợ sông sâu

Buồn cùng với nhớ thi nhau cồn cào

                                            (Vượt rào)

      Nhưng số phận thật trớ trêu: “Em muốn sống một chút thảnh thơi / Bởi đã đi gần hết quãng đời còn lại / Người lạc hồn sẽ lỡ lầm mãi mãi / Sẽ gánh cả đời tê tái nỗi đau”. (Vỏ bọc). Lời thơ của chị như muốn chia sẻ nỗi niềm đầy vơi với những người phụ nữ ấy. Chị dùng ngòi bút của mình phê phán những ông chồng vô trách nhiệm với gia đình với vợ với con, lẽ ra họ phải biết bổn phận làm chồng và có trách nhiệm với con cái. Thế nhưng:

            “Vợ mình ông vứt một bên

      Mải say trong tiếng nhạc nền véo von

           Người tình không đáng tuổi con

      Huếnh hoang bán cả lúa non vì nàng”.

                                              (Ông bạn già)

     Là một văn nghệ sĩ Minh Hiền thấy gì viết lấy, thơ của chị như những trang bút ký, chị ghi lại những gì trong xã hội, chị buồn lòng với những em gái chân chất quê mùa: “Em đâu có phải chân dài / Một thời lội ruộng, vàng hoe da màu (Lầm lỡ) thế mà vẫn đua nhau lên tỉnh hòng mong được cuộc sống an nhàn mát mặt hơn, nhưng có ngờ đâu:

     “Phố phường chật ních,lỏng lơi

Có nhà làm việc có nơi kiếm tiền

     Làng vơi đi những lời nguyền

Bầu ơi! Bí rợ, nợ duyên hỡi đời”.

                                                    (Lên tỉnh)

      Trong phố phường chật chội chị nhìn thấy hết đủ mọi mọi thành phần, với những người bán than lấm lem, lam lũ ngòi bút của chị đầy lòng nhân ái như muốn chia sẻ nỗi vất vả trong cuộc sống mưu sinh:

        “Than hai sọt cao quá đầu

  Cái đen cứ bám dãi dầu đời anh

       Nhào nặn suốt cả năm canh

  Mồ hôi đen đúa, quẩn quanh cơ cầu”.

                                                (Người bán than)

      Minh Hiền với tấm lòng nhân ái, nhân hậu, chị cảm thông và thấy thương những người phải lao động cực nhọc để kiếm sống, mưu sinh. Trong những lúc mủi lòng ấy chị lại nhớ tới những người mẹ suốt đời ở vậy tần tảo nuôi con:

    “Trời mưa bong bóng phập phồng

                    Mẹ chẳng lấy chồng, ở vậy nuôi con

                Tháng năm lận đận héo mòn

          Mẹ ơi! Giấu mãi dáng son đâu rồi”.

                                                                 (Dáng mẹ)

      Trong xã hội không ít những người mẹ đã hy sinh cuộc đời mình để nuôi con, ngòi bút của tác giả đã ghi lại tất cả những gì chị nhìn thấy nghe được. Rồi chị ngậm ngùi nhớ tới mẹ mình, chị cố đi tìm lại dấu tích xưa, người đã mang nặng đẻ đau sinh thành ra mình:

                   “Con về đây tìm lại dấu tích

         Tháng ngày chất nặng kỷ niệm xưa

Và con đếm thời gian

Một thoáng thôi!

Mấy mươi năm... Xa mẹ”.

                                       (Tìm lại dấu tích)

      Nhớ tới mẹ, là chị lại nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, có bao nhiêu tình cảm vơi đầy:

          “Giếng làng thôn nữ múc trăng

                   Sông Hào nước sạch, thay bằng giếng bơm

     Đường quê vấn vít rạ rơm

Cầu Tây, hoa trái vẫn thơm đôi bờ”.

                                            (Cầu Tây)

      Có lẽ thể thơ lục bát là thế mạnh của Minh Hiền, chị viết cho quê hương là vậy, còn với các con lại luôn tự hào nay đã thành đạt, chị lại gieo vào lòng các con những vần thơ lục bát ngọt ngào để động viên các con:

            “Gắng công học hỏi nên người

      Lao tâm khổ tứ đầy vơi trăm bề

            Giỏi lý thuyết, giỏi tay nghề

      Vẫn chân chất vẫn người quê thật thà”.

                                                         (Chúc mừng con)

      Là người giầu tình cảm, nên chị mến những người lao động vất vả, chị thương cha nhớ mẹ, quý con quý cháu, thân thiện với bạn bè, yêu quê hương đất nước. Tâm hồn Minh Hiền như trải rộng ra, trước cảnh đẹp của núi rừng làm chị bâng khuâng xao xuyến:

                  “Em ngỡ ngàng đứng dưới ngàn cây

Tiếng chim ríu ran, nắng đùa trong kẽ lá

Rừng nguyên sơ, một bên là vách đá

Chợt thấy lòng mình nhẹ bẫng gió đưa”.

                                                 (Đến với rừng)

      Yêu quê hương đất nước bao nhiêu chị càng nhớ tới công ơn của Đảng, Bác Hồ kính yêu cùng các bậc lão thành cách mạng bấy nhiêu. Với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên và Đại tướng Võ Nguyên Giáp chị viết:

                “Mang mũ sao về quê mẹ bình yên

                Mắt dõi trông từng làn sóng biển

                Hồn còn hướng về Điện Biên tha thiết

                Lòng đất Vũng Chùa, Người đâu dễ ngủ yên”.

                                                        (Ký ức Điện Biên)

      Đại tướng Võ Nguyên Giáp và “chín năm kháng chiến trường kì” đã “làm nên một Điện Biên”. Tác giả cùng cả nước rất biết ơn những người lính đã từng trèo đèo, lội suối, khoét núi ngủ hầm, mưa dầm gió bấc, không sợ gian nguy khó khăn khổ ải. Đi qua một góc phố cổ giữa lòng Thủ Đô Hà Nội nhìn thấy cây rau tàu bay, chị lại nhớ tới các chiến sĩ Trường Sơn:

Dưới chân tường cây chửa ra hoa

Lá biếc xanh làm nên thời hoa đỏ

Rừng Trường Sơn một đêm trăng tỏ

Kí ức hiện về còn đó một bài ca”.

                                                     (Rau tau bay)

      Đất nước đã hoàn toàn thống nhất, nhiệm vụ của mỗi người dân, mỗi người lính vẫn còn nặng nề, chúng ta vừa xây dựng đất nước vừa giữ vững những vùng biên cương hải đảo, bảo vệ chủ quyền của đất nước. Với tình yêu của tuổi trẻ đan xen quện vào với tình yêu đất nước chị viết:

Tháng sáu này nhớ em đến diết da

Hãy yên lòng, dõi theo anh canh đảo

                  Sự tham lam sẽ là điều mờ ảo

                  Lịch sử ngàn năm, đã khẳng định chủ quyền”

                                                         (Nơi đảo xa)

      Tập thơ CHÍN NHỌN GIÓ ĐỒNG nhà thơ Minh Hiền qua thấu kính của mình, dường như chị đã thấy được “chín vía”của người phụ nữ, khi đầy khi vơi, khi hao khi gầy. Góc nhìn của chị thông qua những vần thơ khi ngọt ngào êm dịu, khi da diết yêu thương, lúc dẵn vặt trách than, lúc thương lúc nhớ. Để chúng ta hiểu thêm về tình cảm của chị với con người, với thiên nhiên, với xã hội...

 

                                                     Nghiêm Thản

 

 

 

 

NHỮNG TÌNH CẢM CHÂN CHẤT, ĐẬM SẮC MÀU DÂN CA LÀ NHỮNG TRANG NHẬT KÝ VIẾT BẰNG THƠ TRONG TẬP THƠ “TÌNH THU” CỦA ĐỖ ĐỨC NĂM

 

Có lẽ tôi là người may mắn hơn cả, được nhà thơ Đỗ Đức Năm tặng cho tập bản thảo tập thơ “Tình thu”. Đây là tập thơ thứ 2 sau tập thơ “Dáng chiều” của anh, đang chuẩn bị xuất bản, cả hai tập chủ đề chính để anh đặt tên tập thơ đều mang một màu sắc của cái tuổi đã xế chiều nhưng sức sống còn đang đầy nghị lực. Anh nguyên là giáo viên dạy toán nhưng tâm hồn lại đầy chất lãng mạn, có tâm có đức nên anh đã len lỏi đi vào từng câu chữ của thi ca. Cái chất dân ca từ lời ru của mẹ, từ tiếng trống chèo, đến các câu hò điệu ví… Đã ngấm sâu vào máu thịt anh, để tâm hồn anh gửi cả vào thơ. Hiện anh đang là chủ nhiệm CLB thơ lục bát Phú thọ, hội viên HVHNT Lâm Thao. Anh đã có rất nhiều thi phẩm được đăng rải rác trên các báo của địa phương và trung ương. Anh là một người con luôn gắn bó với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi có mồ mả Tổ tiên ông bà ông vải, có cha có mẹ, những người thân, và biết bao những kỷ niệm thời ấu thơ, nơi có chợ quê thanh bình yên ả dù chỉ “Dăm người bán, vài người mua / Mớ rau, món tép chào thưa dịu dàng”  “Không nói thách, chỉ một câu / Người mua người bán gặp nhau hài lòng” (Chợ quê). Dù đi đâu về đâu anh vẫn nhớ về nơi quê cha đất Tổ có chiều dài 4000 năm lịch sử mà anh và cả nước tự hào:

         “Tình người đất Tổ thân thương
                  Mỗi lần gặp mặt vấn vương cả đời
                        Chè xanh xanh ngát bên đồi
                  Cọ xòe ô thắm che người phương xa.”

                                                         (Tình người đất Tổ)

     Với quê hương bao giờ cũng là niềm tự hào của mỗi người dân Việt nam. Anh là người con của đất Lâm Thao Phú thọ nơi có vua Hùng dựng nước, và giữ nước, nên anh sẵn có dòng máu Lạc Hồng, anh đã viết những vần thơ đầy lòng yêu nước với niềm tin phơi phới:

                      “Mùa xuân anh lên đường nhập ngũ

                      Cùng trang lứa bao điều nhắn nhủ

                      Anh vững tâm súng trắc trong tay

                      Bảo vệ quê hương đất nước này”

                                          (Tiễn anh lên đường nhập ngũ)

     Anh không nói cho riêng anh, anh nói chung cho mỗ con người trong mọi thời đại, chí làm trai không bao giờ nợ nước, thân làm gái vẫn một dạ sắt son. Con người dân đất Việt là vậy. Anh đã viết những vần thơ trung với nước, với cha mẹ anh càng nặng lòng hơn, anh khóc bằng thơ: "Cha mẹ ơi! Thấu lòng con / Có nghe con nấc khóc mòn giấc đêm(Mẹ). Là người con hiếu thảo sao quên được công ơn cha mẹ, suốt đời tần tảo úp mặt xuống đất, bán lưng cho trời, những vần thơ anh viết như khơi dậy tình mẫu tử:

     “Lo cho con được đủ đầy
                    Mẹ manh áo mỏng chất đầy tình thương
                        Chỉ còn da bọc lấy xương
                    Bao nhiêu tươi tốt mẹ nhường phần con.”

                                                          (Mẹ)

     Với công cha nghĩa mẹ biết viết sao cho đủ đầy, đã có hàng vạn vạn bài thơ viết về cha mẹ, mỗi người chỉ một bài thôi, nếu đặt lên bàn cân có thể nặng tới hàng tấn, nói vui nếu đổ có thể đè chết người. Điều đó đã minh chứng cho lòng hiếu thảo của tác giả đối với cha mẹ. Nhà thơ Đỗ Đức Năm viết không ít những bài thơ như thế. Từ những bài Vu lan báo hiếu, Mẹ, Vần thơ dâng mẹ, đến những bài Ngôi nhà, Vu lan nhớ cha mẹ, Quà con… Đó là những vần thơ anh viết để kính dâng cha mẹ, còn tình nghĩa vợ chồng thì sao? Chắc một tâm hồn thi sĩ như anh không phải đắn đo câu: “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”. Anh càng kính cha kính mẹ bao nhiêu thì anh lại yêu, lại thương vợ bấy nhiêu, là phụ nữ, là người vợ ai không thích, ai không mát lòng hả dạ, ai không thấy hạnh phúc hơn khi nghe những vần thơ mượt mà như thế này khi anh viết tặng vợ nhân này lễ Quốc tế phụ nữ:

“Ta dắt tay nhau đi giữa dòng đời
Thăng trầm nhiều lắm em ơi!
Mỗi lúc vui, niềm vui nhân gấp bội
Và khi buồn ta chia sẻ cùng nhau!”

                                   (Thơ tặng vợ nhân ngày 8.3)

      Thật hạnh phúc trong tình cảm vợ chồng khi cùng “dắt tay nhau đi giữa dòng đời” cùng chia sẻ những đầy vơi, cùng chung một túp lều lý tưởng, buồn vui có nhau. Thơ anh đầy tính nhân văn, vợ chồng anh hạnh phúc là vậy, nhưng không thể ngậm ngùi khi vợ chồng bạn mình phải xa nhau để mưu sinh trong cuộc sống:

      “Em đi anh nhớ anh mong

Vầng trăng khuyết lạnh ngóng trông xứ người

      Em đi tắt cả tiếng cười

Đường xưa đâu dấu chân người lại qua.”

                                                          (Em Đi)

     Có lẽ tác giả là con người đa sầu đa cảm, nên thơ anh đầy tình cảm, đầy nhựa sống. Anh là giáo viên dậy môn tự nhiên, mà tình cảm thày trò của anh dạt dào, đằm thắm “Hai lăm năm đã trôi qua / Tình thày trò vẫn mặn mà như xưa” để rồi:

                   “Gặp nhau giọt lệ rưng rưng
             Bao điều muốn nói ngập ngừng trong ta...
                   Đời vui rạng rỡ như hoa
             Bao nhiêu kỷ niệm vỡ oà con tim.”

                                               (Tình Thầy trò)

     Con người anh là vậy, thơ anh là vậy. Anh phải là người giáo viên yêu nghề lắm, yêu học sinh lắm, nên anh mới viết được những vần thơ gan ruột như thế, anh đã gửi tất cả tâm huyết của mình vào từng câu chữ:

                   Thanh tao chẳng mộng sang giầu
            Oằn vai gánh chữ nặng sâu nghĩa tình
                  Nghiệp đời gắn với học sinh
            Chữ TÂM chữ ĐỨC nặng tình nước non”.

                                                                                 (Thày)

      Đỗ Đức Năm anh là con người trung nghĩa trung tình, có hiếu với mẹ cha, thiết tha trìu mến yêu quí học trò, dạt dào nồng mặn với bạn bè, nên khi gặp lại bạn đồng môn anh đã ghi lại tình cảm của mình bằng nhưng câu lục bát ngọt ngào:“Trao nhau kỷ vật làm tin / Mấy khi có dịp ta tìm về nhau / Cùng ôn kỷ niệm ban đầu / Dồn vào ký ức khắc sâu cuộc đời!” (gặp lại đồng môn). Anh còn là một con người luôn yêu thiên nhiên hoa lá cỏ cây, cảnh vật nên anh đã viết cả một chùm thơ mùa thu đầy thi vị cuộc đời:

                  “Thu về sen lại chia tay
            Ai ngồi khắc khoải nhớ ngày chia xa.

                                                                          (Thu)

      Thơ anh viết về mùa thu nhưng lại liên tưởng đến con người, vũ trụ chuyển vần hết hạ sang thu, đông tàn rồi lại sang xuân. Cũng như con người tan hợp, hợp tan, câu thơ ảo mà thật. Anh là người có tâm hồn lãng mạn nên không tránh khỏi được ý tưởng giao du khắp mọi miền, thơ của anh như một trang nhật ký, anh đã ghi lại những kỷ niệm của mình qua mỗi chuyến đi, khi đến Vũng Tàu anh như trẻ lại khi gặp bạn bè:

                   “Vũng Tầu ơi! Anh Đến rồi 
             Gặp em vui với bao người xung quanh 
                    Sóng chiều giữa biển trong xanh 
             Ngọt ngào em đã đón anh nồng nàn.” 

     Dấu chân anh như một bước chân lãng tử, anh đi khắp mọi miền đất nước từ bán đảo Sơn Trà, thành phố Đà nẵng mến yêu đến Bà nà nơi bồng lai tiên cảnh, rồi tới thành phố Đà lạt ngàn hoa đua nở, các vùng biển, anh không quên ghi lại những kỷ niệm của mình:

                “Bất ngờ trời đất mở ra
          Lạc vào biển cả bao la chưa từng
                Một đời quen với núi rừng
          Gặp nhau bãi biển như chừng khó tin.”

     Thơ của đỗ Đức Năm viết đa dạng về thể loại từ thơ tự do đến thơ đến thơ đường luật nhưng anh vẫn có thế mạnh về thơ lục bát. Hầu như tất cả thơ anh đều viết theo chiều mặt phẳng, dễ hiểu dễ đi vào lòng người, tình cảm chân chất, đậm màu sắc dân ca, ngôn ngữ không hoa mỹ nhưng gây nhiều ám ảnh nên dễ cảm hoá độc giả. Tác giả còn nhiều hứa hẹn với độc giả. Xin chúc mừng anh.

                                 

                                                         Nghiêm Thản


 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét