Thơ & Lời bình
- 2015 -
PHẦN I
thơ
NGƯỜI QUÊ RA PHỐ
Những dự án vươn dài cùng ngọn cỏ
Bỏ lại mùi thơm của hoa lúa dập dờn
Vài chục triệu đồng, đền bù nay đã
hết
Tết đến nơi rồi, gió lạnh quất từng
cơn.
Chị em mình rủ nhau ra phố thị
Nhà trọ bình dân, lạ cũng thành quen
Mỗi người một nghề, mưu sinh kiếm
sống
Tựa vào nhau, khi góc phố lên đèn.
Em đánh giày, anh phu hồ xây dựng
Sống giản đơn, chẳng dám nghĩ ước mơ
Giấc ngủ chập chờn lo ngày mai có
việc
Sáng sớm ra, đợi việc hóa “chợ người”.
Em bán bánh mì giữa sân ga nắng dọi
Chị mang quê mình ra phố bán rong
Bánh đa, bánh tẻ, từ trắng trong đồng
nội
Một chút thảo thơm cho lữ khách ấm
lòng.
Mong có món tiền, gửi về quê tiêu Tết
Anh xe ôm luồn lách suốt đêm ngày
Nông nhàn quá, tất cả dồn ra phố
Hai người, hai quê, đang chia sẻ vơi
đầy.
SỢI BUỒN
Ngoài trời vẫn sụt sùi mưa
Đồng hồ tí tách đong đưa quay vòng
Tơ hồng hóa mớ bòng bong
Cúc tần dậu đổ uốn cong sợi buồn.
CHƯA MUỘN
Anh đến với em, dẫu muộn màng
Heo may se lạnh gọi thu sang
Trời xanh còn điểm chòm mây muộn
Hoa vẫn sắc tươi, nắng mật vàng.
TẢN
MẠN MÙA THU
Ta muốn ôm ghì riết chặt mùa thu
Mật hanh hanh trong vườn nắng tãi
Hoa cúc vàng gợi nhớ mùa hoa cải
Xuân, hạ qua đi, thu đâu phải riêng
mình.
Gió chùng chình, cành lá khẽ rung
rinh
Hồng mọng môi, cho tình ai chín lựng
Ổi đung đưa, chơi trò tung hứng
Na mở mắt dòm hai đứa yêu nhau.
Ấp ủ lá sen cho cốm lên mầu
Đèn ông sao, rước mùa thu Tháng Tám
Bưởi chơi đu giữa chiều vàng nắng rám
Xanh đỏ tím vàng, anh hàng nặn tò he.
Con trâu nằm nhai lại bóng tre
Nghe thời gian trôi vào quá khứ
Thu đang đẹp như nàng thiếu nữ
Ta yêu nàng, ta muốn níu giữ thu.
ĐỢI
Anh mơ em gọn lỏn vòng tay
Đang xiết chặt những ngày xa cách
Nghe ai hát “Nhà mình chung vách”
Anh mơ màng…Em ở bên anh.
Ngước nhìn trời những ánh sao xanh
Sông Ngân Hà cách xa vời vợi
Em biết không? Những ngày chờ đợi
Sợi tơ trời ai thả vấn vương.
Quen khổ rồi, anh chớ quá thương
Câu thơ ấy, lòng anh đau đáu
Như tim em còn đang rỉ máu
Vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
Em đi xa anh nhớ em hoài
Điện thoại gọi, ngoài vùng sóng phủ
Tình trong thơ, chưa bao giờ đủ
Đợi em về, bốn mắt nói với nhau.
HỎI
Yêu nhau vất vả thế em?
Đời anh lầm lũi, lấm lem bụi trần
Đa đoan nhưng chẳng phù vân
Anh cần anh lắm, em cần em chưa?
ĐÊM NGHE
TIẾNG ĐÀN BẦU
Xa đưa vọng lại tiếng đàn bầu
Dìu dặt, nỉ non lệ ngấn sầu
Ngũ bậc não lòng, đầy oán hận
Cung thương thê thảm đủ sa châu
Một dây réo rắt ngàn cung bậc
Lắm kẻ thở than khúc dạo đầu
Nhất độc huyền cầm người đất Việt
Chùng tơ lạc điệu một đôi câu.
CHỜ THƯ ANH
Bờ vai gầy vẫn còn nồng hơi ấm
Của những ngày hai đứa bên nhau
Vòng tay anh ghì em xiết chặt
Tình yêu lên ngôi, đang nhiệm sắc
mầu.
Em vẫn đợi mùa đông trở lại
Nhen ngọn lửa lòng sưởi ấm cho nhau
Nơi đảo xa truyền thông không thể tới
Cánh nhạn hồng, làm cầu nối bờ vui.
Có những lúc em một mình lầm lũi
Chờ thư anh, lại thấy cô đơn
Nghe cơn bão đi qua vùng biển đảo
Thấy xao lòng, lo lắng nhiều hơn.
Gió biển mặn, và nhiều cát bụi
Anh đang thừa, xin gửi đỡ cho em
Nơi đất liền như người có lỗi
Thư lần này em gửi cả nụ hôn.
ANH VẪN SỢ
Anh vẫn sợ dòng đời xô đẩy
Để lòng người đổi trắng thay đen
Anh vẫn sợ cái gì khuấy đục
Nước đã trong khi đã đánh phèn.
Anh vẫn sợ những điều gian dối
Để con tim bầm dập thương đau
Dẫu chữa lành, vẫn thành vết sẹo
Cả cuộc đời hờn giận thù nhau.
Anh vẫn sợ cô đơn hiu quạnh
Bốn bức tường lạnh lẽo vây quanh
Không tình thương, không người chia
sẻ
Tối âm u, giấc mộng không thành.
Anh vẫn sợ lòng mình ích kỷ
Luôn nghĩ thiệt hơn, nghĩ mất còn
Hồn giá băng, trở thành rách nát
Để tình yêu chẳng được vuông tròn.
NGẮM SAO
Với xã hội ta chỉ cỏn con
Một hòn son, có thể tô hồng nhiều thứ
Cùng ấm trà ngồi ngâm nga tư lự
Cao sang thấp hèn cũng chỉ thế thôi.
Trăng đẹp thế mà vẫn đơn côi
Tình tri kỉ có tiền không mua được
Giản dị thôi cũng là điều ước
Dù thế nào…Ta vẫn thương nhau.
Đã quên rồi, đừng gợi lại vết đau
Vũ trụ bao la, không gì giăng mắc
Trong vườn xuân muôn mầu muôn sắc
Ta tìm thấy ta, trong hương vị ngọt
ngào.
Ngước nhìn trời, thấy muôn triệu vì
sao
Ngôi tỏ ngôi mờ, cũng đều là sao cả
Dù đổi ngôi, không có gì khác lạ
Chỉ sợ mây đen, che kín phủ bầu trời.
GỬI EM
Anh gửi em một chút hương
Những ngày xa cách vấn vương nghĩa
tình
Bây giờ anh vẫn một mình
Em lên phố thị chớ khinh quê nghèo.
Ao làng đang tím hoa bèo
Trời xanh leo lẻo, vòng vèo khói cay
Em đi từ bấy đến nay
Hương đồng gió nội chớ bay vội vàng.
Người ta hay học làm sang
Em ra phố thị thói làng chớ quên
Mặc người thay đổi họ tên
Nếp quê giữ lấy chớ nên học đòi.
Gương trong, gương liếp đời soi
Gửi em một chút mặn mòi tình quê.
EM ĐÃ NHẬN RA
Em đã nhận biết, đâu là vòng tù túng
Khuyên mọi người hãy thoát bay ra
Nhưng chính em lại giam mình trong ám
ảnh
Cảnh cô đơn xem như đã quen rồi.
Em nhận thấy con chim lạc đơn côi
Chúng còn biết đi tìm bầu bạn
Biết tri kỷ, tình không bao giờ cạn
Hãy lắng nghe nhịp sống quanh mình.
Mở cửa ra, ta đón ánh bình minh
Đêm đã đi qua, hết rồi tăm tối
Biết tiếc thời gian, nhưng đừng vội
Cái gì đến nhanh, rồi cũng mau tàn.
Em không muốn làm kẻ dối gian
Trước mong manh mơ hồ không giới hạn
Nhưng không để con thuyền mắc cạn
Vượt trùng khơi em thỏa sức vẫy vùng.
Nếu là chim em bay khắp không trung
Nhưng vẫn biết bổn phận mình làm mẹ
Lương tâm mình luôn sáng trong sạch
sẽ
Có sức khỏe và hạnh phúc bền lâu.
HÃY TỰ TIN
Có tham đâu mà sao nhiều hoài vọng
Để biển khát khao lấp mãi chẳng đầy
Đi giữa trời mưa mà sao vẫn khát
Rễ bám đất sâu, cây vẫn hao gầy.
Khi con chim bay khỏi lồng tù túng
Soải cánh bay nhưng vẫn sợ điều gì
Thuyết tự do, và những điều luân lý
Đừng hoang lòng bão táp sẽ đi qua.
Qua mỗi sân ga, đường đời ngắn lại
Bao thăng trầm - để hạnh phúc hôm nay
Dẫu mong manh như cánh diều trước gió
Hãy yên lòng, còn có luật trả vay.
Ta hãy sống như muôn người đang sống
Đống tro tàn, chỉ ở kẻ dối gian
Biển bình yên nhưng cũng nhiều sóng
gió
Ta hãy tự tin, hạnh phúc sẽ dâng
tràn.
TƠ TRỜI
Tơ trời ai thả lửng lơ
Rơi vào đâu nhỉ? Ngẩn ngơ nỗi buồn
Mỏng manh cao thấp cánh chuồn
Gió dong dong gió, gió luồn lạnh thu.
Câu thơ ai đọc như ru
Tiếng chim cu hót, cúc cu gọi sầu
Ngu ngơ như mối tình đầu
Tơ trời vương vấn - gieo cầu tình yêu.
Câu ca:“Duyên phận phải chiều”
Muốn sang không có “cầu kiều” để sang
Tình yêu sao lắm trái ngang
Tơ trời ai thả để quàng vào nhau.
Đau thì không phải nỗi đau
Mà lòng khắc khoải, vẫn cầu vẫn mong
Lòng riêng, riêng kín trong lòng
Người ta vẫn nghĩ bướm ong, xem
thường.
Thương người ấy ở trong gương
Đầu đội mây trắng, còn vương tơ trời.
BÃO TỐ
Tháng ngày qua, bên ta còn hơi ấm
Kỷ niêm ùa về đẹp như mơ
Những dòng thơ còn đang cháy bỏng
Thi nhân ơi! Hạnh phúc đáng tôn thờ.
Có con sông nào suốt đời êm ả
Con lũ về mang nặng phù sa
Hãy coi chừng cuốn phăng tất cả
Mảnh vải che thân còn mất nói chi
nhà.
Ta đã viết câu thơ cần im lặng
Sao còn để sóng cuộn dưới đáy sông
Không níu được sẽ suốt đời nuối tiếc
Chiếc thuyền nan chống sao nổi bão
giông.
Trời đất mênh mông - đời chật chội
Sống được với nhau, bởi ta có tình
thương
Có tính vị tha và lòng nhân ái
Đời lắm chông gai bão tố khôn lường.
Ai biết được miệng đời đưa đẩy
Sẩy chân là ngã xuống vực sâu
Những câu thề khắc vào tâm trí
Ta sẽ có nhau mãi đến bạc đầu.
NỐI LẠI NHỊP CẦU
Thu buồn luồn gió vào kim
Để đem vá lại con tim rách rồi
Ruột gan lửa đốt dầu sôi
Trầu cay, cau nõn, đủ vôi mặn mà.
Một làn sương lạnh xuyên qua
Từ trong rách nát lại là trinh nguyên
Gió giông, sóng nổi, nghiêng thuyền
May mà còn có chút duyên sót mùa.
Câu thơ như thật như đùa
Liếp che không kín, gió lùa cửa sau
Hoa
sim tím chẳng đổi màu
Chim Ô nối lại nhịp cầu sông Ngân.
VỀ LÀNG
Con về quê ngoại ven sông
Kén tằm vàng óng, ngoài đồng dâu non
Mẹ rằng khi mẹ còn son
Bán tơ gánh bộ trơn mòn đôi vai.
Đêm nằm thức giấc canh hai
Lưng vừa chạm chiếu đã dài gió sương
Nghĩ về mẹ, ngậm ngùi thương
Con ra phố thị vấn vương quê nghèo.
Ao quê vẫn tím hoa bèo
Đường đê rơm rạ níu theo chân người
Nón nghiêng chị bán hoa tươi
Bán đi cái đẹp chị cười làm duyên.
Năm ngày lại họp chợ phiên
Con đi mua sắm xuống thuyền sang sông
Sáo bay đi, sáo sổ lồng
Đường ngang phố dọc vẫn không quên
làng.
NHẬN LẤY PHẬN HÈN
Bao giờ hết được gió mưa
Để em bên cạnh cho vừa lòng anh
Bao giờ rừng hết lá xanh
Thôi đành cứ thế, mình đành vậy thôi.
Có đôi mà vẫn đơn côi
Miếng trầu nhạt thếch, thiếu vôi sao
nồng
Thương người bóng chiếc phòng không
Đêm dài đã hết - trời hồng chân mây.
Có người chia sẻ vơi đầy
Dẫu không gặp mặt, đầu dây nghẹn ngào
Sang thu sen vẫn hồng đào
Dẫu là nở muộn vẫn dào dạt sen.
Em ơi! Phố đã lên đèn
Anh xin nhận lấy phận hèn về anh.
VÁ LẠI
TÌNH THƯƠNG
Em ngồi vá lại cô đơn
Bằng lời tri kỷ dỗi hờn đầu dây
Em ngồi vá lại những ngày
Cải vàng đương độ, đong đầy sắc xuân.
Cách xa vá lại cho gần
Cho tình nồng thắm mỗi lần xa nhau
Đò ngang lại vá thành cầu
Không còn cách trở, sông sâu sóng cồn.
Giận nhau vá lại nụ hôn
Thôn Đoài thôn Thượng hai thôn
Em ngồi vá lại tình thương
Càng xa càng thấy vấn vương tơ lòng
Hoa thơm ong bướm vẽ vòng
Em về vá lại tình trong nghĩa ngoài.
KHUYÊN EM
Có nhiều lúc em âm thầm, trầm cảm
Quỹ thời gian, mình còn có đâu nhiều
Bờ vai em tựa, chỉ là đơn điệu
Gánh đỡ được đâu, khi trở về chiều.
Em phải nghĩ gia đình mới là tổ ấm
Hòn máu đánh rơi còn nặng nghĩa, nặng
tình
Dẫu một ngày cũng nên tình nên nghĩa
Giận quá mất khôn, em tự khổ mình.
Em hãy ngước nhìn muôn vàn tinh tú
Tưởng gần nhau mà xa vạn ngàn trùng
Và chẳng bao giờ đến với nhau được
Chỉ có tình người mới có điểm chung.
Lòng dũng cảm chỉ ở người bản lĩnh
Biết hy sinh, nhưng cũng biết cứu
mình
Đời bon chen, luôn tính điều hơn
thiệt
Người hơn người là biết nhục biết
vinh.
Khuyên em giữ những gì đang có
Hãy nâng niu trân trong tự hào
Đời khổ nhất, lòng người khánh kiệt
Hạnh phúc nào bằng khi ta đón xuân
sang.
BỞI TẠI EM
Bởi tại em gieo cấy mầm thơ
Và những ngôn ngữ ngoài từ điển
Để cát mịn khát khao chờ sóng biển
Mộng ôm bờ ghì chặt lấy hoàng hôn.
Bởi ánh mắt em đã hút hồn
Để trong anh bồn chồn xao xuyến
Góc phố nhỏ gió đùa lưu luyến
Mưa lây phây như đã chuyển mùa.
Nghe xa xa thánh thót giọt chuông
chùa
Trước cửa Phật, anh cầu mong hạnh
phúc
Trong vườn thu rực lên mầu vàng cúc
Có nụ cười duyên, kín đáo dịu dàng.
Bởi tại em giản dị kiêu sang
Vô tình rớt xuống, ngôi sao lạ
Giữa thành phố gửi hồn nơi rơm rạ
Uống bát chè xanh tưởng nhớ tới cội
nguồn.
Bởi tại em man mác trầm buồn
Đánh thức con tim đa sầu đa cảm
Con chim quý tự mình giam hãm
Vẫn mong được xoải cánh vẫy vùng.
Hai tâm hồn có những khổ chung
Muốn thoát khỏi cái vòng tù túng
Ta đã đi qua bao mùa lá rụng
Để hôm nay cháy một niềm tin.
CHỈ
LÀ MƠ
Biết rằng đó chỉ là mơ
Mà sao vẫn thấy ngẩn ngơ tiếc hoài
Mong sao lập lại lần hai
Đừng ai đánh thức mơ dài dài thêm
Ước gì mơ thế cả đêm
Mênh mang trong mộng, êm đềm ru thơ
Để người trong mộng chơi cờ
Trận thua, trận thắng, trận chờ hoãn
binh
Tiếng gà eo óc bình minh
Giấc mơ đứt đoạn, nhớ hình bóng ai
SOI
MÌNH
Mận đâu dám trách hồng đào
Năm thương mười nhớ như bào ruột gan
Nặng tình nên đỗi díu dan
Vẫn mong bầu bí chung giàn quấn leo.
Cô
đơn một mảnh trăng treo
Cuối thu se lạnh, gió heo se lòng
Vòm
trời ai uốn nên cong
Câu thơ ướt sũng đem hong nắng vàng.
Biết
nhau dẫu có muộn màng
Nhìn về quá khứ lại càng thương nhau
Sông
Ngân chim đã bắc cầu
Duyên mình có thế, phận đâu dám đòi.
Cạn
rồi giọt lệ mặn mòi
Dẫu là méo mó, ta soi thấy mình
Ngoài
trời đã ánh bình minh
Đêm dài đã biết trọng khinh lẽ đời.
VỀ VỚI MẸ
Con nay về với mẹ đây
Vẫn cầu ao ấy vẫn cây sung già
Vẫn chum tương, vẫn
vại cà
Bà con lối xóm mặn mà như xưa
Vẫn đây mấy luống cải dưa
Cháu tôi đã lớn vẫn chưa lấy chồng
Trước nhà đỏ thắm hoa hồng
Bao nhiêu kỷ niệm mặn nồng hiện ra
Những năm tháng đã đi qua
Con ra phố thị quê nhà khó quên
Vẫn hàng bia mộ không tên
Các anh ngã xuống làm nên đất này
Nén nhang thơm thảo hôm nay
Cầu mong siêu thoát, hồn bay lên trời
Dù đi khắp chốn muôn nơi
Nhớ về với mẹ đầy vơi quê nghèo.
CŨNG ĐÀNH
Nghe em chia sẻ mà thấy xao lòng
Những uất ức, bung ra như vỡ nhọt
Nén chịu âm thầm, bao ngày vàng vọt
Dẫu chưa hả lòng, đầu óc cũng nhẹ
tênh.
Đời nhấp nhô, gai góc, lắm thác ghềnh
Đành cam chịu như duyên trời đã định
Trói vòng “Kim cô” - gặp người toan
tính
Tiếc cho đoá hoa, đã cắm lạc bình.
Cũng một đời hoa, cũng một cuộc tình
Đành cam chịu, còn bao điều ràng buộc
Giữ hoà khí cho những người thân
thuộc
Trái đất này còn nhiều khoảng trời
xanh.
Hơi vừa bén hơi, chưa ấm cũng đành
Dẫu mình mãi là người tri kỷ
Dẫu mơ hồ, đừng đắn đo suy nghĩ
Có niềm tin, ta sẽ mãi còn nhau.
NGƯỜI BUÔNG CÂU
Dẫu cho quỹ thời gian còn
ít ỏi
Mỏi cánh bay mới gặp được bến bờ
Dẫu cho có duyên mà không có phận
Vẫn thích nghe một giai điệu ru hờ.
Người đang yêu, không thích điều ngang trái
Lời ái ân dù giả dối vẫn mát lòng
Câu nói đùa thành câu nói thật
Cắn mồi câu, thương con cá lượn vòng.
Người buông câu nghĩ mùa thu đã cạn
Không nói lời thương, sợ chẳng được nhiều
Sợ không còn xanh, mầu xanh bích ngọc
Để mặc cho con tạo cứ xoay vần.
Người buông câu như sợ mình có lỗi
Có biết đâu, đang tự dối lòng mình
Mắc phải bùa yêu, thích nghe lời ân ái
Dẫu mong manh, cũng một cuộc tình.
NGƯỜI TRONG GƯƠNG
Hôm
qua mày ở trong gương
Hôm nay đáy giếng đáng thương thân
mày
Gừng già càng đắng càng cay
Mày cần im lặng dẫu đầy trái ngang.
KHI
GIÓ
CHUYỂN
MÙA
Thế là thu đã chuyển mùa
Dang tay anh chắn gió lùa về em
Buồn vui lẫn lộn đan xen
Bao nhiêu u uất em đem chôn vùi.
ĐỢI
TRĂNG
Khát khao em, cố đong
đầy
Xa nhau mong một vòng tay xiết hờ
Tím chiều giăng lối sương mờ
Nhà bên đỏ lửa, anh chờ trăng lên.
Những ngày cuối tháng khó quên
Thua rồi anh muốn viết đền bài thơ
Ngẩn ngơ chờ cái vu vơ
Đợi thì cứ đợi bao giờ trăng lên!
VỀ KINH BẮC
Hôm ấy hai đứa mình về Kinh Bắc
Trời ập mưa to suốt mấy tiếng liền
Em thấp thỏm sợ chậm giờ sinh hoạt
Anh lại thấy vui khi có cớ bên em.
Trời chuyển gió, mưa nhiều thêm lạnh
Sấm sét rung trời, em nép vào anh
Anh chợt thấy lòng mình sao ấm áp?
Đợi chờ gì?... Mà giây phút trôi
nhanh.
Anh chỉ muốn trời mưa lâu đừng tạnh
Để chúng mình mãi ở bên nhau
Anh chỉ muốn sấm sét to hơn nữa
Để được ôm em nơi Kinh Bắc sông Cầu.
Vẳng đâu đây nghe câu ca người đợi...
Mưa tạnh rồi qua cầu gió vẫn bay
Một kỷ niệm đong đầy nơi Kinh Bắc
Đến bây giờ anh vẫn thấy say say.
ĐÊM CÚC PHƯƠNG
Lời thơ anh ru nhẹ
Giữa rừng xanh mênh mang
Đưa em vào giấc ngủ
Trong chiêm bao mơ màng.
Giọt buồn trong đáy mắt
Đang tan dần vào đêm
Hóa niềm vui sóng sánh
Cùng ánh trăng êm đềm.
Hoa than rơi tí tách
Hồng lên trong đêm thơ
Sưởi lòng ai giá lạnh
Em khẽ cười trong mơ.
Đêm Cúc Phương không ngủ
Ngắm em giấc ngon lành
Giữa rừng xanh dựng trại
Em sưởi ấm lòng anh.
ĐỜI EM
Lòng em thánh thiện bao la
Một mình nín nấu, vượt qua thác ghềnh
Con thuyền nhỏ bé lênh đênh
Một mình chèo chống, chông chênh một
mình.
Không yêu cũng một cuộc tình
Cũng thành gia thất, nhục vinh cam
lòng
Vượt lên số phận xoay vòng
Chua cay, mặn chát, vẫn mong bằng
người.
Dấu buồn môi nở hoa tươi
Về nhà em cất nụ cười đi đâu?
Mơ hồ nhớ mối tình đầu
Biết đâu dải yếm qua cầu gió bay.
Bồ hòn ngậm ngọt - đắng cay
Gió to, sóng cả, sông đầy vẫn sang
Chót đèo bòng, phải đa mang
Thương thân vẫn sợ tan hoang cửa nhà.
Thương con tủi hận cho qua
Mưu cầu việc lớn hữu hòa là em.
GIỮA MÊNH MANG BIỂN
Trên nhà giàn gió mặn reo lồng lộng
Giữa biển trời Tổ Quốc rộng mênh mông
Anh lại nhớ những ngày cuối tháng
Dáng hình ai in bóng nước dòng sông.
Quên sao được dưới ráng chiều chạng vạng
Hai đứa mình sóng bước dưới triền đê
Con sông quê đôi bờ thiêm thiếp cỏ
Đàn trâu bò rong ruổi nối đuôi về.
Mới sáng nay nghe tin đài báo bão
Hướng gió đi, lại vào thẳng quê nhà
Thời gian này, sợ đang mùa lúa trổ
Nơi đảo chìm mà anh thấy xót xa.
Sọt rau xanh thấm mồ hôi người lính
Bữa cơm chiều còn có cả hoa tươi
Đây nhà giàn, giữa mênh mang biển
Vẫn đọc thơ em, thấy mắt em cười.
MẸ ƠI!
Mẹ ơi! Con vẫn nhà quê
Sống nơi đô thị còn mê hương đồng
Nhà
quê đẹp sắc cầu vồng
Có mưa bong bóng phập phồng giữa sân.
Nhà
quê đầy ánh trăng ngân
Mùi thơm rơm rạ níu chân người về
Đàn
bò đủng đỉnh triền đê
Người quê lam lũ dãi dề nắng mưa.
Vại
cà mặn với vại dưa
Chum tương đạm bạc, mưa thừa nắng
thiêu
Nhà
quê dịu ngọt những chiều
Chuông chùa thong thả, cánh diều
chênh chao.
Dập
dờn sóng lúa lao xao
Lập lòe đom đóm, cào cào đỏ xanh
Rau
vườn đậm ngọt nồi canh
Mẹ ơi! Con nhớ màu xanh quê mình.
AN LẠC
Có nhiều tiền ư? Chưa chắc là hạnh phúc
Có quyền lực ư? Cũng chỉ thế thôi
Ai sinh ra, cũng mưu cầu hạnh phúc
Hạnh phúc mỗi người đâu có giống nhau.
Kể cả nỗi đau, mỗi người mỗi khác
Có gì khổ hơn khi lạc lối lầm đường
Không gì hạnh phúc bằng đời an lạc
Vạn kiếp chân tu mới được vô thường.
Hưởng lạc nhiều không an càng lo lắng
An phận rồi, không lạc hóa cô đơn
Đời vẫn thế lắm người đeo mặt lạ
Giả làm ma còn khoác áo tu hành.
Lạc mà không an, đâu là hạnh phúc
Canh cánh bên mình những mưu toan
Có gì hơn bằng cuộc đời thanh thản
Không nợ, chẳng vay, vui vẻ an nhàn.
CHUYỆN THẬT
NHƯ ĐÙA
Xưa nghèo ao rộng thêm ra
Bây giờ dư dả làm nhà lên ao
Nhà
ở tầng thấp tầng cao
Học sinh trung học hỏi: Ao là gì?
Đừng
trách các cháu làm chi
Trách môn địa lý quên đi ao làng
Ao,
chuôm, hồ, rãnh, rõ ràng
Không như thành phố gọi sang là hồ.
Một
phần trách nhiệm thầy cô
Giảng không phân tích giữa hồ với ao
Không
như châu chấu cào cào
Cãi nhau quyết liệt, ai nào chịu thua.
Nghe
câu chuyện thật như đùa
Con trâu lại gọi... lạ chưa con bò.
HÒN VÔI
Mồ côi rồi lại mồ côi
Đá nung lăn lóc, bình vôi xó nhà
Trầu hôi héo úa cau già
Làm sao thắm đỏ mặn mà với nhau
CHIM
HOẠ MI
Con chim quí hót trong lồng
Khác gì thiếu phụ nói không với chồng
Lạnh lòng đâu phải gió đông
Giọng trầm bởi khát mênh mông ngoài
trời.
LỖI
LẦM
Lỗi lầm của các vương triều
Thời đầu hưng thịnh, sau xiêu thoái
dần
Lỗi
lầm của các quân thần
Buồn vui chỉ biết lo thân riêng mình.
Lỗi lầm trăm họ dân tình
Lầm than cam chịu, rẻ khinh chất
chồng
Lỗi
lầm mơ mộng viển vông
Giơ tay bắt gió vẫn không được gì.
Lỗi
lầm nhìn lại đường đi
Bước cao bước thấp mấy khi huy hoàng
Lỗi
lầm bước xuống đò ngang
Ngờ đâu bờ bến, bẽ bàng tuổi xanh.
Lỗi
lầm lỡ muối mặn canh
Không chan thì rưới, đói đành nuốt
thôi
Lỗi
lầm nên hóa đơn côi
Đá xanh qua lửa thành vôi quét tường!
Lỗi
lầm nên đỗi đáng thương
Trời cao mây phủ trăng suông nhập
nhòa
Lỗi
lầm xin một chữ hòa
Sai rồi phải sửa, nhìn ra lỗi lầm.
THẾ
MẠNH
ĐỒNG
TIỀN
Sợ rằng người sẽ đổi thay
Tôi đâu hờ hững, vòng tay lỏng dần
Sợ bao con mắt thi nhân
Liếc ngang liếc dọc dọc muốn gần
người ta.
Sợ người ham kiếp phù hoa
Theo người lịch lãm, tiêu pha “tiền
chùa”
Thế là tôi sẽ bị thua
Nhìn theo bong bóng cứ đuà trong mưa.
Cuối cùng tôi vẫn là thừa
Đồng tiền thế mạnh có chừa ai đâu!
TIẾC
Làm chồng nên biết làm con
Sữa căng ngực mẹ, lối mòn cha đi
Cải ngồng tiếc lúc xuân thì
Lá xanh non nõn nghĩ gì thành dưa.
Cuộc đời vần vũ mây mưa
Xác xơ thui chột tình thưa thưa dần
Vũng bùn chót lỡ sa chân
Mấy ai đã được mười phân vẹn mười.
Nói ra e sợ người cười
Đã đành hoa chẳng mãi tươi trong bình
Tiếc người ta, tiếc phận mình
Loài hoa trong trắng, hoa Quỳnh còn
thua.
Lời yêu thương thật, nghĩ đùa
Vẳng nghe thong thả chuông chùa chậm
ngân
Nhìn mưa bong bóng giữa sân
Rễ oằn hoa Sứ tần ngần ngẩn ngơ.
Khi đã hiểu, tưởng như mơ
Tiếc hoa nở muộn, xin chờ mùa sau.
NỖI KHỔ THÚY VÂN
Thúy Vân ơi hỡi! Thúy Vân
Mười lăm năm ấy muôn phần khổ đau
Người ta có mối tình đầu
Không thành khổ lắm, biết đâu duyên
hờ!
Vợ
chồng thật, vẫn giả vờ
Nâng khăn sửa túi ai ngờ đớn đau!
Lúc
vui vẻ, lúc mày chau
Nhìn quanh mây nước một mầu xanh xanh.
Hoa
thơm ai lỡ vin cành
Vâng theo lời chị cũng đành vậy thôi
Một
đời bèo dạt mây trôi
Một đời thương chị, mồ côi tình mình.
Phải
đâu duyên nợ ba sinh
Phải đâu đến nỗi cuộc tình trái ngang
Người
ta vẫn nghĩ mình sang
Ngờ đâu chị khổ, phũ phàng đời em.
Trăng
khuya vàng lọt qua rèm
Gió hiu hiu gió ngọn đèn lắt lay
Âm
thầm nuốt đắng ngậm cay
Chàng Kim có thấu nỗi này cho chăng.
Hết
tròn lại khuyết vẫn trăng
Ai người tìm chỗ chưa bằng để kê.
DÀNH CHO EM
Người ta đãi để tìm vàng trong cát
Phá bao nhiêu đá để lấy kim cương
Anh sàng sẩy những điều sung sướng
Tìm thấy bao nhiêu những nỗi buồn.
Em đã đi qua bao nhiêu con sóng
Để gác chèo đậu bến hôm nay
Anh lắng nghe những lời em nói
Chọn lấy một câu tình cảm nồng say.
Tình không vay mà sao vẫn nợ
Chỉ thật thương nhau mới thấy mặn mà
Quà trao nhau bằng cái nhìn âu yếm
Nửa cuộc đời anh, em đã ngang qua.
Anh cố chắt lọc những điều cay đắng
Để tìm cho em hương vị ngọt ngào
Anh cố gạn những lời nhạt thếch
Dành cho em những tình cảm đậm đà.
GẶP LẠI NHAU
Anh nhớ lắm những ngày còn thơ dại
Trèo lên cây anh hái sấu cho em
Và cả những chùm hoa phượng vĩ
Cài lên đầu em làm giả cô dâu.
Hai đứa mình bầy chơi trò chồng vợ
Anh dựng lều giả làm mái nhà tranh
Nằm bên nhau cùng hưởng tuần trăng
mật
Sao bây giờ em chẳng phải của anh?
Hơn bốn mươi năm gặp nhau là quý
Bởi ngày xưa, chẳng ai nói năng gì
Giờ gặp nhau bao nhiêu điều thay đổi
Em đã bà, anh biền biệt ra đi.
Cái cười chết người vẫn không thay
đổi
Thôi anh đừng nhắc lại chuyện xưa
Chỉ bởi tại mình ngây thơ dại dột
Bây giờ mình vẫn là bạn của nhau.
ÂM
THẦM
Có
chồng như thể thông dâm
Một đời lầm lũi âm thầm nuôi con
Ngày
xuân thui chột héo mòn
Sang thu lá úa đâu còn tốt tươi.
Hở
môi răng lạnh người cười
Câu thơ gõ cửa thành người sẻ chia
Đồng
hồ tí tách đêm khuya
Có ai biết được cành lìa khỏi cây.
Vẫn
con vẫn cháu xum vầy
Mà bao chua xót lòng đầy khổ đau
Ngoài
trời nặng hạt mưa mau
Em ngồi đong đếm nỗi sầu cất đi.
XONG
MỘT VÁN CỜ
Tơ
hồng rối vẫn là tơ
Cúc tần xanh vẫn đợi chờ mênh mang
Đưa
chân bước xuống đò ngang
Dù trong dù đục cũng sang cho đành.
Biết
đâu kẻ phũ vin cành
Cây đang xanh nõn hóa thành xác xơ
Thế
là hết những ước mơ
Thế là xong một ván cờ đời em.
ĐÓN EM TRỞ VỀ
Mây hồng khuất rặng tre già
Em tôi khăn gói đi ra thị thành
Tập
tô môi đỏ mắt xanh
Phố phường chật chội em đành về thôi
Lang
thang một áng mây trôi
Quê nghèo vẫn đón em tôi trở về.
TÔI
ĐI TÌM TÔI
Tôi đi tìm lại chính tôi
Ba chìm bẩy nổi xa xôi cuối trời
Tôi đi tìm lại cuộc đời
Bao nhiêu sung sướng xa vời vợi xa.
Lạc vào giữa bãi tha ma
Tối om địa ngục đâu là trần gian
Bao nhiêu vất vả gian nan
Mà sao bão tố vẫn tràn vào tôi.
Đời người bạc trắng như vôi
Bây giờ mới thấy chính tôi là mình.
THẾ
CÂY
Cây nào cũng ngả cũng nghiêng
Rễ oằn bắm xỉ chung chiêng tán già
Gửi
hồn vào thế cây đa
Nếu mà vươn thẳng chẳng ma nào nhìn.
EM
CƯỜI
Tình
yêu chết bởi con tim
Chị Hằng chết bởi trăng chìm trong
mây
Em
cười chết kẻ ngất ngây
Như bông hoa nở, nắng đầy vườn xuân.
ĐÀNH
CHỜ
Thu già mà vẫn yêu hoa
Cúc vàng hờ hững đi qua nỗi buồn
Mưa bay ướt cánh chuồn chuồn
Rối bời chỉ đỏ, khó luồn trôn kim.
Mất đâu mà cứ đi tìm
Câu thơ ướt sũng nổi chìm vu vơ
Sốt lòng vẫn phải làm ngơ
Nén tâm cam chịu đành chờ xuân sang.
AI THƯƠNG CHÚNG MÌNH?
Đất bạc mầu, nhận tình thương của lúa
Cây úa vàng, vẫn thương vạt đất nâu
Hoa trái thương cây ngày đêm tích
nhựa
Người thương người, bởi đồng cảnh với
nhau.
Cái rét thấu xương, thương đông giá
lạnh
Hòn đá trơ vơ thương cái lạnh gió mùa
Anh thương em, bởi em nhiều cay đắng
Muối mặn xát lòng, để cải xót chua.
Nắng nóng oi nồng, thương trời đổ lửa
Lửa có ai thương, khi bếp tro tàn!
Giọng nói ngọt ngào thương tình nồng
cháy
Em thương anh khi hạnh phúc dâng
tràn.
Hạt mưa rơi, thương đám mây nặng nước
Trước lũ dâng, ai thương nước bao giờ
Mình thương nhau từ tình yêu chân
thật
Ai thương chúng mình? Bởi chỉ là mơ.
BIẾT VỀ ĐÂU
Bàn chân quen lội bùn sâu
Bây giờ lên tỉnh đi đâu cũng giày
Đâu còn cái tuổi thơ ngây
Đầu trần chân đất dạn dày gió sương.
Vại cà, rau muống, chum tương
Bờ tre, bụi chuối, vấn vương nghĩa
tình
Lẫn trong tiếng nhạc xập xình
Tiếng tim ai vỡ khóc mình xót xa.
Dong chơi hưởng thụ sa đà
Nhà quê ra tỉnh vẫn là nhà quê
Hết rồi dính H I V
Nửa quê nửa tỉnh, biết về nơi đâu.
NHÌN GIA CẢNH ẤY
Người ta chúc cụ sống lâu
Sức tàn lực kiệt ngồi đâu cũng phiền
Sống trong xã hội đồng tiền
Già rồi rệu rạo, mất quyền mẹ cha.
Tài sản chia bẩy chia ba
Anh em lủng củng bất hòa với nhau
Thọ làm gì! Nghĩ mà đau
Nuôi cha nuôi mẹ chia nhau từng ngày.
Gừng già, gừng đắng, gừng cay
Những mong con cháu sum vầy là vui
Nhìn gia cảnh ấy ngậm ngùi
Mai mình có bị dập vùi thế chăng?
VU VƠ
Yêu trăng nhưng chẳng thích tiết hạ
huyền
Bởi trăng cứ vơi dần hao gầy thương
nhớ
Sao chúng mình cứ gặp nhiều cách trở
Nặng gánh cuộc đời như mắc nợ nhau.
Cuối thu rồi mới hiểu mối tình đầu
Câu hát ghẹo từ xa xưa còn vọng
Mình sinh ra từ lời ru cánh võng
Ngấm vị ngọt ngào của tiếng mẹ ầu ơ.
Tình thương chân thật mà cứ như mơ
Cứ ước, cứ mong, cứ chờ, cứ đợi...
Trong mơ hồ thấy xa nhau vời vợi
Gần nhau đây mà xa vạn ngàn trùng.
Dù mình đã tìm thấy những điểm chung
Nhưng không thể, và không bao giờ
thể!
Muốn gần bên nhau, không bao giờ dễ
Có phải chúng mình, toàn những vu vơ?
MỪNG LỄ HỘI LÀNG
Phú Đô xuân này lòng người náo nức
Những nụ đào hồng thắm nở trên môi
Cứ vài năm làng mình lại vào đám
Tiếng trống đình giục giã mãi không
thôi.
Đường làng rộng, mà nay như hẹp lại
Cờ đỏ sao vàng, cờ thánh tung bay
Các cụ già trang trọng trong khăn áo
Lớp trẻ tươi cười, tay xiết chặt tay.
Khách thập phương đổ dồn về làng bún
Hướng về đình làng, đi lễ cầu may
Đến với tâm linh, lòng người thanh
thản
Xem rước Thành Hoàng, kiệu quay tít
bay.
Mừng Đảng, mừng xuân ta mừng lễ hội
Điệu hát chèo dìu dặt vẳng đâu đây
Mừng quê mình từ làng lên phố
Vẫn giữ gìn được truyền thống xưa
nay.
HIỂU
CHO ANH
Nặng duyên không phận phải đành
Nhìn em đau ốm, anh thành người dưng
Bao nhiêu cản trở rào bưng
Sương giăng kín lối, rưng rưng nỗi
buồn.
Thăm nhau cũng phải lách luồn
Lựa thời gian đến, lén chuồn cửa sau
Những mong em bớt cơn đau
Chưa tìm ra bệnh ruột nhàu như dưa.
Đầu dây gọi sớm gọi trưa
Giúp nhau không được hóa thừa - khổ
anh
Nén lòng nuốt lấy chữ đành
Bao nhiêu tình cảm anh dành vào thơ.
Cuộc đời là những giấc mơ
Cuộc đời là những ván cờ được thua
Cái buồn bán chẳng ai mua
Cái cần mua phải đợi mùa trăng sau.
EM
ĐI TÌM
Nửa đời thui thủi nuôi con
Nỗi buồn chôn chặt, héo mòn tuổi xanh
Bây giờ mới biết được anh
Thấy hoa nở muộn trên cành mà vui.
Cũng là số phận khiến xui
Có người chia sẻ đẩy lùi nỗi đau
Thu sương giăng trắng trên đầu
Em ngồi xếp lại những câu thơ buồn.
Lá rơi chạm rễ cội nguồn
Chỉ nào mà chẳng phải luồn trôn kim
Em đi tìm cái em tìm
Niềm vui bất tận, lặn chìm bấy lâu.
CON
NHỆN
GIĂNG
MÙNG
Về thôi sao cứ dùng dằng
Nhện ơi! Nhện hỡi! Nhện giăng tơ gì?
Người về níu áo người đi
Bên này bên ấy mấy khi hát cùng.
Nhện ơi! Sao mải giăng mùng?
Để em lạc lối lùng bùng khó ra
Em về nói dối mẹ cha
Bỏ quên mất áo, người ta cầm nhầm.
Ngoài trời mưa rắc lâm thâm
Em thương cha mẹ - con tằm nhả tơ
Chúng mình dệt những ước mơ
Lâu đàì hạnh phúc, em chờ đợi anh.
SOI GƯƠNG
Người ta cần đến mày đâu
Thằng trong gương nới những câu chân
tình
Thấy hình méo mó giật mình
Thằng trong gương chính là hình bóng
tôi.
ĐÓN
EM
Thôi anh đừng đến đón em
Viển vông đến thế, tôi xem lại mình
Mấy ai hiểu hết chữ tình
Ai người hiểu hết trọng khinh lẽ đời.
SỢ CÁI NỬA VỜI
Hận thì mới giận thế
thôi
Khéo khôn nhận lỗi, cũng rồi cho xong
Hết thời gót đỏ lưng ong
Vẫn người nhân hậu, tình trong nghĩa
ngoài.
Nỗi buồn cũng đã nguôi ngoai
Chỉ còn dằn vặt đúng sai cũng đành
Bao ngày bếp lửa lạnh tanh
Mùa xuân lại đến, trên cành lại hoa.
Giêng hai vườn tím hoa cà
Tháng năm hè gọi mặn mà bằng lăng
Bụi tre giờ đã ấm măng
Hết tròn lại khuyết, vẫn trăng muôn
đời.
Những lời chia sẻ đầy vơi
Lòng thầm sợ cái nửa vời với nhau.
BỚT GIẬN
CHO LÀNH
Xin
em bớt giận người ta
Dù gì người ấy vẫn là người thân
Nếu
đem đặt thử lên cân
Người dưng theo được mấy phần người
ta.
Cây
cao, cành cỗi, lá già
Khó lường bão tố phong ba bất thường
Đã
đi qua mọi nẻo đường
Giận thì vẫn giận, không thương sao
đành.
Xin
em bớt giận cho lành
Xin em đừng nghĩ thừa anh... dặn dò.
NỬA GHEN, NỬA NHỚ,
NỬA
THƯƠNG ỠM Ờ
Thu
về hoa sữa đưa hương
Hạ còn vương vấn giăng sương mái đầu
Trời
thu xanh ngắt một mầu
Tơ trời ai thả vương câu thơ buồn.
Gió
heo rong ruổi cánh chuồn
Lá vàng rụng chạm cội nguồn thu rơi
Đàn
bầu ai gảy đầy vơi
Cánh diều ai thả giữa trời lửng lơ.
Theo
đàn ai hát vu vơ:
“Ai thương, ai đợi, ai chờ ai đây...”
Khi
yêu như dại như ngây
Ai người thả lưới bủa vây sóng tình.
Vướng
tơ mới thấy giật mình
Trúc ngà trúc vẫn còn xinh bên đường
Để
ai dan díu vấn vương
Nửa ghen, nửa nhớ, nửa thương ỡm ờ!
ĐÊM KHÔNG NGỦ
Dẫu gì cũng bớt cho anh phần thương
nhớ
Nghẽn mạch hai đầu, biết chia sẻ cùng
ai
Đêm thì dài - đời người sao ngắn ngủi
Cây chột thui bởi thiếu nước hóa vô
hồn.
Anh bồn chồn thấy đêm đông lạnh giá
Cái bóng vô chi có giúp được gì đâu
Lo cho bạn mình từng giây từng phút
Có kẻ si mê ôm ấp mối tình đầu.
Ghen một chút, thích người ấy được
vuốt ve
Muốn chở che, nhưng không sao làm
được
Mỗi bước đi qua, là bấy bước gập
ghềnh
Bây giờ thuyền đã bớt chông chênh.
Hãy coi chừng còn nhiều giông tố
Hoa trong bui gai đâu phải riêng mình
Quỳnh nở đêm, không ngại
loài ong bướm
Vẫn trắng trong , khoe nhụy ngát thơm
hương.
Em đừng tự trách mình ngu ngơ khờ dại
Dẫu dính bụi trần và những trái ngang
Thời gian qua đi đâu còn quay trở lại
Ta thấy mình vững chãi trước phong
ba.
ĐỪNG LÀM THẾ
Sao có những kẻ lừa phái đẹp còn tự
thú
Có phải chăng để làm dịu lòng nhau?
Đừng làm thế, và chưa bao giờ đủ
Trước lúc giao thừa, vết sẹo lại tấy
đau.
Pháo hoa nở muôn mầu không thấy đẹp
Khói nhang cuộn tròn - ruột rối gỡ
không ra
Những mũi kim trích vào tim như lặp
lại
Vẫn muốn tống đi cái cũ kĩ lúc giao
hòa.
Sao có kẻ đánh cắp trái tim còn sám
hối
Có biết đâu họ đang giẫm lên bóng của
mình
Lời thú tội dẫu thật thà cũng đã muộn
Ai đã làm tan nát một cuộc tình?
Còn có kẻ trong mình đầy tội lỗi
Vẫn chai lì, làm người khác khổ đau
Tự cho mình cái quyền đàn ông, cậy
thế
Những người đàn bà chẳng ngốc mãi thế
đâu.
DÙ THẾ NÀO
ANH VẪN YÊU EM
Linh tính đã mách bảo anh rằng
Chim quý bay khỏi vùng phủ sóng
Mưa dẫu nhỏ cũng thành bong bóng
Dùng máy nào cũng nghẽn mạng mà thôi.
Anh chỉ sợ anh lại mồ côi
Bởi chính anh là người có lỗi
Hay anh đã là người dẫn lối
Khi người ta đã thấy anh hèn.
Giữa đô thị chật chội bon chen
Sao tình yêu cũng nhiều vất vả?
Anh vẫn lo mất em, mất cả
Để xuân tàn tan tác cánh Tigon.
Không có em cuộc sống sẽ vô hồn
Bởi với anh vô cùng yếu đuối
Lần đầu tiên cũng là lần cuối
Dù thế nào anh vẫn yêu em.
XIN HỎI
Cây sâu, cây mục gì đâu
Mà đào tận rễ để sầu lòng dân
Xin hỏi các đấng minh quân
Ô dù không có trú chân chỗ nào?
20/3/2015
VÔ ĐỀ
Càng say, càng đượm, càng nồng
Thương con bìm bịp, ngoài đồng tìm
nhau
Bao giờ cho đến mùa cau
Anh tìm dải yếm, bắc cầu sang sông.
MƯA
Ngoài trời rơi giọt buồn
Chắc lòng em lạnh lắm
Từ cái nhìn say thẳm
Anh nghiêng về bên em.
XIN
EM
Sinh
em biển có đã lâu
Câu thơ lục bát khen màu biển xanh
Xin
em đừng có giận anh
Sao sóng cứ vỗ tan tành bọt tung.
TỰ TRÁCH
Ai xui mình đến với nhau
Mừng trầu chưa úa, mừng cau chưa già
Vẫn biết em của người ta
Sao còn dan díu, còn đa đoan nhiều.
PHẦN II
Lời bình
“NÓI VỚI CON” LÀ NHỮNG GIỌT ĐẮCỦA VIỆT HỒNG
NÓI VỚI CON
Nghe con nói, nghe con cười
Thấy hình con giữa khoảng trời xa xôi
Vui là vui thế, Thế thôi!
Thày mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay
Bờ sông mưa bụi lắt lay
Con cò chạm xuống rồi bay phương nào
Bây giờ tu những ước ao
Bây giờ tu cả chiêm bao cuối mùa
Giờ quên cả những trò đùa
Dửng dưng những thứ được thua ở đời
Đêm nằm mắt nhắm chơi vơi
Đồng hồ tí tách giọt rơi thấm màn
Nghe con cuốc cuốc kêu khàn
Lạnh tê một thuở non ngàn trẻ trai
Con mình giờ tưởng con ai
Cháu mình giờ của người ngoài lạ chưa
Nghe con hát mấy câu thơ
Vương vào mắt mẹ bạc phơ tóc thày
Tháng chạp Nhâm Thìn
Lời bình :
Ai sinh con
ra mà chẳng muốn con mình được vuông tròn, khỏe mạnh, ngoan ngoãn, học giỏi.
thế mà nhà thơ Việt Hồng lại mất tích một đứa con gái vừa tuổi cập kê trăng
tròn, do bọn buôn người bắt bán sang Trung Quốc. Cũng rất may mắn cho anh, sau
13 năm viết thơ để tìm kiếm, anh đã tìm thấy được con mình. Nhưng hoàn cảnh
thật trái ngang, con anh đã lấy chồng có con ở một vùng trời xa lạ. Tết đến
xuân về, nhà nhà sum họp, nhưng anh lại thiếu vắng một đứa con, anh chỉ còn
cách nói với con, anh nói với con bằng thơ. Việt Hồng viết bài thơ “Nói
với con” bằng thể thơ lục bát ngọt ngào mà sâu lắng.Trên màn hình vi
tính anh được nhìn thấy con, anh vui mừng sung sướng nhưng niềm vui chưa trọn
vẹn:
“Nghe con nói, nghe con cười
Thấy hình con giữa khoảng trời xa
xôi
Nghe con nói đấy, nghe con cười đấy mà thấy xót xa, trong khi
cái tết cổ truyền đã đến gần, dập dìu kẻ đi người về, thì con anh lại ở một
vùng phương Bắc xa xôi cách trở hàng ngàn cây số. cho nên anh vui thì vẫn vui,
mà ruột gan anh nhàu nát. Hơn mười năm, vợ chồng anh, gia đình anh chờ mong thắc
thỏm từng ngày:
“Thày
mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay
Bờ sông mưa bụi lắt lay
Con cò chạm xuống rồi bay phương nào!”
“Bờ sông
mưa bụi lắt lay” hay gia đình anh tìm thấy con là một điều mơ hồ, cũng lắt lay như ngọn đèn trước gió khó mà
thấy được. “Con cò chạm xuống”, hay
con gái anh đã về. Niềm vui được nhân lên khi tìm thấy con; con anh đã về, về
thật không phải là mơ. Niềm vui ấy không được bao lâu. Hình ảnh con cò chỉ chạm
xuống rồi lại bay đi, cũng như con anh lại phải khăn áo ra đi. Hình ảnh con cò
là hình tượng của con anh, anh ví con anh như thân cò, mà đã là thân cò lặn lội
thì lấy đâu ra sung sướng. Trong ca dao có câu: “Thân cò lặn lội bờ sông”. Anh dứt ruột, bứt gan để viết nên những
vần thơ máu thịt này, anh thành công trong nghệ thuật viết thơ, giầu hình ảnh,
biến hình ảnh thành hình tượng. Thế mà anh vẫn phải tu :
“Bây giờ tu cả ước ao
Bây giờ tu cả chiêm bao cuối mùa”.
Tu theo gốc chữ Hán (修)tu có nghĩa sửa, đến cuối mùa rồi, cuối thu rồi, tuổi
đã xế chiều rồi mà nhà thơ vẫn tu, anh tu cả những ước mơ, tu cả những chiêm
bao mới là lạ, những ước mơ và chiêm bao có cái gì sai để mà sửa. có phải chăng
những ước mơ và chiêm bao được gần gũi con gái của anh không thành,
nên anh viết nên những vần thơ chua xót này. Những mất mát những tổn thương làm
cho anh:
“Giờ quen cả
những trò đùa
Dửng dưng những thứ
được thua ở đời
Đêm nằm mắt nhắm chơi
vơi
Đồng hồ tí tách, giọt
rơi thấm màn”.
Xa một đứa con gái duy nhất, anh như người mất hồn, anh quen cả những trò đùa vô bổ, anh dửng dưng với những được thua, những mất còn ở đời. Anh viết thơ hay anh thổn thức bằng thơ. “Đêm nằm nhắm mắt chơi vơi”, qua từ “chơi vơi” ta thấy tâm trạng đau buồn của anh, chơi vơi đồng nghĩa với chới với, chới với không có chỗ vịn, cũng như lửng như lơ vậy. Mắt anh nhắm mà như mở, ngủ mà như thức, tỉnh mà như mơ, anh mơ màng nhớ con. Đêm càng về khuya không gian càng tĩnh mịch, từ tiếng con thạch sùng kêu chặc chặc, đến tiếng mưa rơi, tiếng đồng hồ tí tách đều gợi nên một nỗi buồn não ruột. tiếng đồng hồ trong thơ Việt Hồng nghe tí tách như những giọt sầu, có lẽ không phải là giọt mưa mà là những giọt lệ rơi.Việt Hồng khóc bằng thơ. Thơ của anh thấm ướt cả mùng màn chăn gối, mà con mình vẫn xa vời vợi nơi phương trời xa lắc. Đêm nằm nhớ con trằn trọc thao thức, anh còn nghe thấy những âm thanh khác lạ như vận vào anh :
“Nghe con cuốc cuốc kêu
khàn
Lạnh
tê cả thuở non ngàn trẻ trai”
Nhớ con, vợ chồng anh đã khóc ướt cả chăn
gối, hình ảnh con chim cuốc kêu đến khản cả tiếng, hay chính anh đã khóc đến
khản cả giọng. Anh như dại như ngây, anh khóc suốt cả phần cuối cuộc đời, tâm
hồn anh tê tái, tim anh thắt lại :
“Con mình giờ tưởng con
ai
Cháu mình giờ của người ngoài lạ
chưa !”
Thật xót xa, con gái mình rách ruột đẻ ra,
nuôi con đến lúc lớn khôn, không gả, không bán, mà phải xa con biền biệt, còn
mà như mất, có mà như không, ai mà không đau lòng. Cho nên anh nghĩ con mình mà
tưởng như con ai, cháu mình đích thực con gái mình đẻ ra mà nghĩ như cháu của
người ngoài thì thật là chua xót. Câu thơ anh viết mà như dao cứa vào da thịt,
như giằng xé ruột gan, liệu con anh đọc
những dòng tâm huyết
này có cầm được nước mắt, có chịu
đựng được không? Trên màn hình
vi tính cả gia đình nhìn thấy con anh, nghe con anh đọc thơ của anh mà
thấy nghẹn ngào, nước mắt vợ anh, nước mắt anh, nước mắt mọi người làm mắt nhòa
đi, tóc anh bạc thêm ra:
“Nghe con hát mấy câu thơ
Vương vào mắt mẹ, bạc phơ tóc
thày”
Mười tám câu lục bát mượt mà, đằm thắm,
thiết tha, day dứt, nghẹn ngào của nhà thơ Việt Hồng đúng là viết ra từ gan ruột
máu thịt của mình. Những câu chữ không mới mà rất mới, bởi anh biết cách tân nó
bằng cách vận dụng đúng chỗ, nên gây nhiều gợi cảm cho độc giả. Thơ anh giầu
hình ảnh, những hình ảnh thân quen không
cầu kì lên gân, anh biết biến hình ảnh thành hình tượng sâu sắc dẫn dắt người
đọc đến sự chia sẻ tâm huyết, tình cảm của mình. Đó là một thành công của người
cầm bút. Phải nói rằng bài thơ: “Nói với con” là một điểm nhấn trong
sự nghiệp văn thơ của anh.
ĐẾN VỚI SỰ MẤT CÒN CỦA TÍCH TUẤN
QUA BÀI THƠ “TRÁI TIM”
TRÁI TIM
Cái còn nó vẫn
còn đây
Bao nhiêu cái mất chất đầy con tim
Lắm khi chống gậy đi tìm
Khuấy trong kí ức nổi chìm không ra
Thôi đừng xáo xới tim ta
Đất trời đã khéo sinh ra mất còn
Trái tim múa những nét son
Họa con chim hót véo von tình đời.
Tích Tuấn
Lời
bình:
Người ta thường nói từ trái tim đến khối
óc. Những dự định lớn lao, những kế hoạch ngắn dài, những ước mơ hoài bão,
những tính toán mưu sinh v.v… hiển nhiên là sự vận động của khối óc. Nhưng nói
đến trái tim người ta nghĩ ngay đến tình
cảm của mỗi con người, phải chăng trái tim cũng biết suy nghĩ, bởi sự buồn vui,
hờn tủi, yêu thương, đau khổ, hạnh phúc và căm ghét người ta thường nghĩ đến
con tim. Con tim rung lên khi nhận được
tình yêu ngọt ngào, và những lời ân ái, chết lịm con tim khi nhận lấy khổ đau,
khắc khoải, tủi hờn khi tình yêu tan vỡ,
con tim trở thành chai sạn khi trải qua những mất mát thăng trầm …Con người
ta bắt đầu từ lúc chào đời đã biết nhận và cho. Đầu tiên là nhận được ánh sáng,
những tinh hoa tinh túy của vũ trụ, của đất trời, nhận được tiếng chim hót lảnh
lót trên cành, mầu xanh của lá, mầu hồng của hoa, nhận được mùi thơm sữa mẹ và
tiếng à ơi dịu ngọt cùng sự nâng niu trìu mến của người thân. Còn cho ư? Khi
chào đời con người ta tưởng như không có gì để cho, nhưng thật nhiều. Cho cha
mẹ và mọi người tiếng khóc u oa, cho niềm vui hân hoan sau chín tháng mười ngày
chờ đợi, cho cái ngây thơ trong trắng, cho nụ cười mụ dậy nở trên môi... Nhà
thơ Tích Tuấn đã cho những gì, nhận
những gì, và cái gì còn, cái gì mất. Mở đầu bài thơ ông đã nhận thấy rằng:
“Cái còn nó vẫn còn đây”
Phải chăng đây là
tiếng nấc cuộc đời, để trái tim thổn thức, khắc khoải, trống vắng, bi thương vì
:
“Bao nhiêu cái mất chất đầy con tim”
Câu thơ rất ảo mà
lại thật, khiến người đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Đó cũng là sự thành công của
người cầm bút khi chuyển tải tình
cảm vào thơ, để câu thơ thêm đậm đà mầu sắc. Bài thơ sinh động lên khi tác giả
đặt ra tình huống mất, còn:“Cái còn nó
vẫn còn đây”. Thật là trớ trêu, giữa cái còn và cái mất, cái còn thì còn
mãi không bao giờ mất, nó đi theo con người ta đến tận
cùng năm tháng của cuộc đời. Cái còn càng nhiều bao nhiêu, thì trái tim lại
càng tan nát, day dứt, vò xé, đau khổ, luyến tiếc cái mất bấy nhiêu, muốn đánh
đổi cũng không bao giờ đổi được. Bởi nó là những kỉ niệm buồn vui, những chia
sẻ vơi đầy, những yêu thương mặn mà nồng cháy trong tim, đã ghi xương khắc cốt,
không bao giờ quên được. Còn cái mất đã bay xa vào vũ
trụ tâm linh huyền bí, cho dù một lần, hai lần và nhiều lần, thậm chí
đến lúc hơi tàn sức yếu phải “chống gậy đi tìm” và “khuấy” trong ngân hàng “kí ức nổi chìm” cũng không bao giờ thấy
được, mà chỉ thấy những tình cảm yêu
thương trìu mến của những ngày xa xưa. Tôi cũng đã từng an ủi vợ một liệt sĩ
bằng những vần thơ :
“Thôi em đừng đào bới những thiên thu
Nơi nghĩa địa tìm đâu ra hơi ấm
Hãy giữ lấy mầu xanh bích ngọc
Số phận một phần, đông hết phải sang xuân”
( Sang xuân - Lê Nghiêm )
Nhưng không thể nào làm
vơi đi những nỗi khổ đau đang giằng xé tâm can trong sự mất còn. Cũng như tác
giả đau đáu trong lòng khi viết những câu :
“Thôi
đừng xáo xới tim ta
Đất trời đã khéo sinh ra mất còn”
Đó cũng là lời than vãn xót xa, xin đừng ai
nhắc đến cái mất mát đau thương không bao giờ níu lại được. Ông cũng tự an ủi
mình, vì tất cả như có sự sắp bày của qui luật tạo hóa:
“Con
sông nào cũng đổ về biển cả
Lá vàng rơi – đâu bão táp dập vùi
Đời muốn dài nhưng chống sao qui
luật
Dấu chấm than lẫn lộn cả buồn vui
”.
( Dấu chấm than N.T )
Vết thương nào rồi cũng thành sẹo, nỗi buồn
nào rồi cũng vơi đi. Sau cơn giông tố thì trời lại sáng. Sau những mất
mát đau thương hờn tủi trái tim quằn quại giờ lại :
“Múa lên những nét son
Họa con chim hót véo von tình đời”.
Hình ảnh ngọn bút của họa sĩ vung lên vẽ con chim hót véo
von, chính là sức vươn, là tính tích cực của con người. Bức tranh “con chim hót véo von” đó là sức sống
của tác giả, sức sống của con người không sợ gian nan, không sợ mất mát.
Bài thơ viết có
hậu, chỉ với tám câu lục bát ngọt ngào, dung dị, đằm thắm, khá nhuần nhuyễn
ngôn từ rất đời thường, không cầu kì không lên gân, tác giả đã miêu tả được sự
nhạy cảm của con tim . Đó là tình cảm của những con người biết vui, biết buồn,
biết hờn biết tủi, biết đau thương và biết vươn lên đỉnh cao của cuộc sống, là “Tiếng chim hót véo von tình đời ”. Cảm ơn nhà thơ Tích Tuấn đã cho
độc giả thấy sự thăng trầm chìm nổi của con tim. Xin ông Hãy “giữ lấy những gì ta đã có / Hạnh phúc ngọt ngào có cả máu hồng tươi.
XIN CHIA SẺ VỚI DƯƠNG
TÙNG GIANG
Qua bài thơ: “Nỗi đau Đi-ô-xin”
NỖI ĐAU ĐI-Ô-XIN
Từ chiều ấy con đi không về nữa
Chẳng ngày nào cha không gọi tên con.
Con chào đời trong tay mẹ bao dung
Con ra đi trong tay cha bất lực
Cha run rẩy vuốt cho con đôi mắt
Con lặng im như đang giấc ngủ sâu .
Cha bàng hoàng gục xuống giữa cơn đau
Chiếc hòm gỗ mầu son rực lên như hòn lửa
Đứng lặng yên vô hồn khô lệ
Cha muốn khóc con dù chỉ một lần .
Hoa trắng héo trên mồ dưới bình minh
Cha vẫn thắp hương cho con mỗi lần trời rạng sáng
Nỗi buồn cứ dài theo năm tháng
Cha vẫn ngồi xuống mỗi cơn đau .
Cha biết đi đâu về đâu
Đành để mặc tim mình quằn quại
Những khoảnh khắc nhớ con ngây dại
Cha vẫn thấy con ngồi học đêm đêm.
Thương con cha lặng im
Nắm mì tôm vẫn để phần cho con ăn đỡ đói
Nhớ con cha thầm gọi
Tên con cha đã đặt từ những năm chiến tranh.
Trong máu lửa cha vẫn mong về cuộc sống yên bình
Mà bây giờ nỗi đau dài theo năm tháng
Cha biết có một ngày cha nằm xuống
Vĩnh viễn - nhẹ nhàng - bình yên
Sau một cơn đau tim dữ dội .
Kẻ ác chưa một lần kết tội
Nỗi đau đi-ô-xin đè nặng kiếp người
Những mơ ước nhỏ nhoi
Tuổi thơ con vụt tắt.
Dương Tùng Giang
Lời bình :
Tôi rất may được tác giả Dương
Tùng Giang cho xem tập bản thảo, và được tặng tập thơ “Dòng sông vẫn chảy”
sớm hơn mọi người do NXBVH ấn hành
năm 2012. khi đọc đến bài: “Nỗi đau
đi-ô-xin” Tôi thật sự xúc động. Khi
sinh con ra, ai chẳng muốn vuông tròn. Nhưng tạo hóa thật cay nghiệt, trời đất
thật không công bằng: “con chào đời trong
tay mẹ bao dung” rồi con lại “ra đi
trên tay cha bất lực”. Có nỗi đau nào đau hơn thế! Những người lính khi ở
chiến trường họ phải hứng chịu bao gian nan thử thách để giành lấy hai tiếng
hòa bình. Nhưng chớ trêu thay, khi chiến tranh kết thúc, họ trở về với quê
hương làng xóm, với mái ấm tình thương của mình, họ còn đau khổ hơn nhiều – cái
nỗi đau nó giằng xé tâm can, đeo đẳng đi theo suốt cả cuộc đời, dằn vặt tâm hồn
theo năm tháng… Bởi cái chất đi-ô-xin chết người kia đã ngấm sâu vào từng thớ
thịt, từng tế bào từng giọt máu của người lính. Lúc xây dựng gia đình, hạnh
phúc nào bằng khi nghe tiếng à ơi, thế mà những đứa trẻ sinh ra nó có tội gì
đâu mà “bà mụ” lại lỡ tay nặn ra méo mó hình hài, đầy mình bệnh tật. Dương Tùng Giang anh viết cho riêng
anh, anh viết cho những người lính cùng chung số phận với anh, kể cả những
người lính Mỹ:
“Cha bàng hoàng gục xuống giữa cơn đau
Chiếc hòm gỗ mầu son
rực lên như mầu lửa
Đứng lặng yên mắt vô
hồn khô lệ
Cha muốn khóc con, dù chỉ một lần”.
Thơ Dương Tùng Giang giản dị
mà như khía vào những nỗi đau chiến tranh chưa thành sẹo của những người lính
không may mắn. Hình ảnh chiếc hòm gỗ mầu son lạnh ớn kia, lại hóa thành hình
tượng những ngọn lửa chiến tranh cứ âm ỉ đốt cháy mãi cuộc đời. Những người
lính như anh muốn khóc khi mất một đứa con, nhưng không sao khóc được, bởi từ
lúc sinh con ra, họ đã âm thầm khóc quá nhiều rồi, họ bất lực trước “Nỗi đau đi-ô-xin”,nên họ còn đâu nước
mắt nữa để mà khóc. Những dòng nước mắt ấy đã hóa thành mạch lệ ngầm chảy ngược
vào tim.
Là cha, là mẹ, ai không muốn sinh con ra được lành lặn, khỏe mạnh. Có
nỗi đau nào đau hơn những người lính mang trong mình cái chất độc đi-ô-xin quái
quỉ ấy. Sinh con ra nuôi con đấy, yêu con đấy, thương con dứt ruột, đứt gan, mà
vẫn phải chờ một ngày không mong muốn! Vẫn cầu nguyện cho con mình kéo dài thêm
sức sống. Những vòng hoa trắng vẫn đè lên nấm mộ, rồi héo dần trong những buổi
bình minh, và “cha vẫn thắp hương cho con
mỗi khi trời rạng sáng”Đó là những nỗi đau đớn, xót xa suốt cả cuộc đời :
“Cha
biết đi đâu về đâu
Đành để mặc trái tim mình quằn
quại”
“Nỗi đau đi-ô-xin” là một bản cáo trạng tố cáo cuộc chiến tranh
vô cùng bẩn thỉu và dã man của đế quốc Mỹ gây ra, trời không dung, đất không
tha. Tòa án đâu sao không minh sét, để Dương
Tùng Giang phải gào thét lên:
“Kẻ ác chưa một lần đền tội
Nỗi đau đi-ô-xin đè nặng kiếp người
Những mơ ước nhỏ nhoi
Tuổi thơ con vụt tắt”.
“Dòng sông vẫn
chảy”.Thơ anh vẫn chảy, cho dù nỗi đau này đeo đẳng suốt
cuộc đời anh, và những người lính như anh. Xin chia sẻ cùng anh qua bài thơ “Nỗi đau người lính”.
NỖI ĐAU
NGƯỜI LÍNH
Vợ chồng ai chẳng muốn vuông tròn
Anh lên đường làm trọn việc nước non
Trí làm trai không bao giờ nợ nước
Thân làm gái vẫn một dạ sắt son.
Anh trở về khi Mỹ ngụy đã tan
Hết chiến tranh chưa hết cảnh điêu tàn!
Đất nước đã hoàn toàn giải phóng
Anh ôm em xiết chặt vào lòng.
Hạnh phúc riêng anh chẳng nhiệm mầu
Ôi Hỡi trời! anh có tội gì đâu
Mà vợ sinh con thành dị tật
Thiếu chân, thiếu mắt, lại to đầu
Ôi! Chiến tranh sao lại hóa kéo
dài
Tội ác này xin hỏi tại ai?
Tòa án đâu sao không minh xét
Đứa trẻ sinh ra cũng một kiếp người.
Ôi! Nỗi đau như dao cắt vào lòng
Những ước mong, khát khao và sung sướng
Cháy ruột gan, tất cả thành vô vọng
Thành mạch lệ ngầm chảy ngược vào tim .
Nghiêm Thản
SỰ CHỐNG CHẾNH CHÔNG CHÊNH
LÀ “KHOẢNG LẶNG” TRONG THƠ
NỮ SĨ HỌ BÀNH
KHOẢNG LẶNG
Không anh chống chếnh chông chênh
Nắng hiu hắt nắng, ngày mênh mang
ngày
Đêm về tay nắm bàn tay
Bóng buồn lẻ bóng, héo gày chờ mong
Đông về lòng vắng hoang lòng
Người xa, xa mãi khuất trong xa mờ
Thôi đành vịn lấy câu thơ
Gửi tình vào chốn mộng mơ một mình
Nép vào khoảng lặng vô hình
Mình riêng, riêng một cỗi tình xa
xôi…
Bành Phương Lan
Lời bình :
Đọc tập san Thi đàn bình thơ Trường Xuân tập 1 tôi bắt gặp bài thơ: “Khoảng
Lặng” của nhà thơ Bành Phương
Lan. Tôi nghĩ trong cuộc đời dài ngắn của mỗi con người, ai cũng có lúc
trống vắng, chơi vơi, thiếu hụt, lẻ loi, lặng lẽ, cô đơn. Đó chính là “khoảng lặng” Có cái “khoảng lặng” nhẹ nhàng, man mát chờ đợi,
có những “khoảng lặng” lạnh đến ớn
người, bởi cái “khoảng lặng” ấy nó
kéo dài như vô tận. Với mười câu lục bát ngọt ngào, đằm thắm, thiết tha, da
diết, dường như tác giả đã thấu hiểu được những riêng tư của người phụ nữ, chị
đã cho độc giả thấy một “khoảng lặng”
mênh mang dài dằng dặc, đó là sự mất mát chống vắng cô đơn của người đàn bà. Từ
tình yêu đôi lứa đến tình cảm vợ chồng, như nhà thơ N.T đã viết:
“Rất hạnh phúc khi cả nhà sum họp
Thiếu một người cơm bữa
chẳng thấy ngon”
(Mong N.T)
Bành Phương Lan,
chị chia sẻ những mất mát, xót xa, trống vắng, hụt hẫng của những mảnh đời
không may mắn:
“Không anh chống chếnh, chông chênh
Nắng hiu hắt nắng,
ngày mênh mang ngày”.
Trong tình yêu khi hai tâm hồn đã hòa
làm một, hai thể xác đã trộn vào nhau, thì với họ chỉ là một nửa, mà đã thiếu
đi một nửa thì sao mà không “chống chếnh”.
Nhưng câu thơ của Bành Phương Lan
không dừng lại ở hai từ “chống chếnh”
mà còn “chông chênh” nữa kia. Tất cả
mọi thứ, cho đến tình cảm con người khi đã rơi vào thế “chông chênh” thì thật là nguy hiểm. Chưa đủ, nỗi trống vắng ấy còn
như tia nắng yếu ớt “hắt hiu” sắp tắt,
như ngày cứ “mênh mang” dài mãi ra. Qua những từ láy “chông chênh, hắt hiu, mênh mang”, và những cụm từ “nắng hiu hắt nắng, ngày mênh mang ngày, bóng
buồn lẻ bóng, lòng vắng hoang lòng”. Ta thấy chị đã thừa hưởng được những tinh
hoa của Nguyễn Du trong truyện Kiều: “Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao / Mặt mơ
tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng”. Chứng
tỏ nhà thơ đã dùng nghệ thuật viết của mình để diễn tả sự mất mát, xót xa,
trống trải, lẻ loi cô đơn khi người thân của mình đã vắng bóng. Những nỗi buồn
ấy như giằng xé, bào gọt tâm can, cắt vào từng thớ thịt từng tế bào:
“Đêm về tay nắm bàn tay
Bóng buồn lẻ bóng, héo
gày chờ mong”
Câu thơ của Bành Phương Lan làm cho cái“khoảng
lặng” ấy càng buồn đến não ruột. Để người phụ nữ phải day dứt, dằn vặt đến
nỗi ngày như dài thêm
ra, đêm thì
trằn trọc không ngủ được, bàn tay
lúc sấp, lúc ngửa nắm chặt lại, miên man suy nghĩ. Con người chỉ còn là cái
bóng héo gày mà vẫn chờ mong một điều như vô vọng. “Khoảng lặng” ấy cứ đi theo suốt cả cuộc đời:
“Đông về lòng vắng hoang lòng
Người xa, xa mãi khuất trong xa mờ”.
Mùa đông là mùa của những đôi chim câu tha rác về làm tổ. Không có mùa
đông tìm đâu ra hơi ấm, tìm đâu ra ngọn lửa đỏ tình yêu. Nhưng mùa đông trong
cái “khoảng lặng” của Bành Phương Lan thì tê tái lạnh buốt như kem, “lòng vắng hoang lòng”, nhà như rộng thêm ra, bởi “người xa, xa mãi khuất trong sương mờ”. Dường như số phận của mỗi con người
đều được sắp đặt, tất cả mọi việc đều đi đến kết thúc, vết thương nào rồi cũng
thành sẹo, nỗi buồn nào rồi cũng vơi đi.
Bành Phương Lan, chị an ủi nhân vật của mình bằng cách “thôi đành” và “vịn lấy câu thơ” để mà sống, thầm lặng “gửi tình riêng” của mình vào “chốn
mộng mơ”. Nép mình vào nơi góc khuất của cuộc đời, nơi “khoảng lặng” của thời gian như vô hình
để chèo chống với thử thách của cuộc đời. Chỉ với năm cặp lục bát ngọt ngào đằm
thắm thiết tha, bài thơ không dài mà chuyển tải được tình cảm của những người
lẻ bóng cô đơn thật đầy đủ. Nhà thơ đã dùng
những ngôn ngữ đời thường, rất
gần gũi nhưng lại
rất đắt , bởi chị đã biết đặt đúng chỗ của nó, để dẫn độc giả hiểu sâu
hơn nội dung của bài thơ. Phải nói rằng bài thơ “khoảng lặng” là một trong
những dấu chấm son trong sự nghiệp thơ văn của chị. Chúng tôi những độc giả rất
yêu thơ chị đang chờ những bài thơ hay hơn. Chúc chị may mắn, có nhiều cảm xúc.
“NỖI ĐAU MANG MẦU DA
KHÔNG LÀNH CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH
NỖI ĐAU MANG MẦU DA
(Kính
tặng những người lính
nhiễm chất độc da cam )
Con trai!
Thế
là nhà ấy đẻ con trai!
Những lời
chúc đầy ba gian nhà nhỏ
“Thằng
cha ấy thế mà số đỏ
Bộ đội về, vợ
muộn, đẻ con trai”
Anh chạy quanh
vòng trong, vòng ngoài
Vừa tiếp
khách, vừa nhận lời mừng, chúc
Trong ánh mắt
một nỗi đau uẩn khúc
Chốc chốc lại
hướng về phía buồng trong.
Người mẹ trẻ
ôm chặt con vào lòng
Tiếng nấc
nghẹn, nước mắt rơi lã chã
Hai bàn tay
kéo vội vàng chiếc tã
Để dấu đi
những khuyết tật trên mình
Của thằng con
trai chị vừa mới sinh
Như chẳng muốn
ai nhìn thấy nó
Đậy lại niềm hy vọng của dòng họ
Đang mong có người nối dõi tông đường...
Người lính ấy, năm xưa đi chiến trường
Nỗi đau này, làm tim anh hoá đá
Ôm vợ con trong tay, cố không gục ngã
Trận mưa bom hoá chất năm xưa, bỗng hiện
về
Chất độc da cam cả đơn vị đều chia...
Anh rùng mình, rồi lại nhìn thằng bé
Con trai ơi! tha lỗi cho cha nhé
Chiến tranh mà, cha nào muốn đâu con
Cha ra đi chiến đấu vì nước non
Mong ngày về, một gia đình yêu dấu
Mơ ước ấy, đã được đổi bằng máu
May mắn hơn những người bạn đã hy sinh
Cha được trở về sống giữa thời bình
Nỗi đau chiến tranh lại hiện về qua con
trẻ
Chẳng bao giờ thành một người đàn ông
Thằng con trai sẽ mãi còn thơ bé
Một dòng họ không người nối dõi tổ
tông...
Nhân loại ơi! Nỗi đau này còn mãi...
Bành Phương Lan
Lời bình :
Chiến tranh đi qua, những người lính trở về được trọn vẹn là một điều
rất may mắn. Có biết bao người đã ngã xuống, vĩnh viễn gửi xương thịt của mình
nơi rừng sâu núi thẳm, những người may mắn hơn thì thiếu hụt một phần của cơ
thể, hoặc tàn phế, hoặc mang trong mình một thứ chất độc chết người, để lại
những di chứng quái quỉ cho đến tận các
đời sau. Những mất mát ấy là những nỗi đau nó đi cùng năm tháng theo suốt cả
cuộc đời người lính.
Nhà thơ Bành Phương Lan đã
chia sẻ nỗi đau ấy với những người lính không may mắn qua những vần thơ đầy
thông cảm, chị đau chung với những nỗi đau như giằng xé tâm can, như muối sát
vào lòng, khi mọi người mừng nhầm cho số
phận của mình :
“Thằng cha ấy thế mà số đỏ
Bộ đội về, vợ muộn,
đẻ con trai”.
Những người lính khi rời quân ngũ trở về với quê hương, làng xóm, xây
dựng hạnh phúc gia đình, ai mà không mừng, nhất là lại nghe tin vợ đẻ con trai.
Ai sinh con mà không muốn được vuông tròn. Nhưng trớ trêu thay, có đau xót nào
bằng chính những lời chúc vui, lời mừng
ấy lại như dao cứa vào da thịt, mũi dao nhọn, mũi kim châm trích vào tim. Bởi đứa trẻ sinh ra đâu có
phải là một hình hài trọn vẹn, mà chỉ là một đống thịt không hồn. Trong ánh mắt
của người lính không dấu được những nỗi đau uẩn khúc:
“Chốc chốc lại hướng vào
phía buồng trong
Người mẹ trẻ ôm con chặt
vào lòng
Tiếng nấc nghẹn, nước
mắt rơi lã chã”.
Người phụ nữ họ có tội gì đâu, những
năm tháng đợi chờ dài đằng đẵng, người yêu đi biền biệt bao khao khát, thời
gian ấy, quãng đời ấy họ đo bằng tuổi thanh xuân hăng say nhịp sống của mình,
thế mà cái thiên chức được làm mẹ như thế này đây:
“Hai
bàn tay kéo vội vàng chiếc tã
Để dấu đi những khuyết
tật trên mình
Của đứa con trai chị vừa
mới sinh”.
Đứa trẻ được đầu thai nó có tội gì mà tạo hóa lại lỡ nặn ra một hình hài
méo mó, khó chịu. Liệu đứa trẻ ấy có trở thành một con người được không? Hay
suốt đời sống như thực vật làm khổ mẹ khổ cha, làm khổ những người thân, còn nói
đâu đến nối dõi tông đường. Thơ của Bành
Phương Lan đã làm cho trái tim của những người lính mang trong mình chất
độc Đi-ô-xin, vốn đã chai sạn, càng thêm chai sạn hơn :
“Người
lính ấy năm xưa đi chiến trường
Nỗi đau này là tim anh
hóa đá
Ôm vợ trong tay cố
không gục ngã”.
Trái tim các anh hóa đá, hay trái tim các anh đang quằn quại trước nỗi
đau như cấu xé từng thớ thịt, từng tế bào trong cơ thể, như gọt dũa gan ruột
mình, nó theo các anh đeo đẳng suốt cuộc đời, mà còn kéo dài mãi sang những thế
hệ sau. Thơ của nữ sĩ họ Bành rùng
mình, hay các anh rùng mình trước tội ác man rợ đến ghê tởm của bọn giặc Mĩ xâm
lược, đã dùng những kiến thức khoa học hiện đại không phục vụ con người, mà còn
hủy diệt tất cả mọi sinh vật đến tận cùng không lối thoát. Chị đã kêu lên:
“Nhân loại ơi! Nỗi đau này còn mãi”.
Cái nỗi đau này còn mãi, bởi những di chứng nó kéo dài sang những đời
sau. Theo phong tục của người Á Đông, không có con trai để nối dõi tông đường
lại là một trong những điều bất hiếu, mà đứa trẻ sinh ra có thể vẫn sinh hoạt
bình thường nhưng lại mất đi cái thiên chức của người đàn ông, trong khi cả gia
đình mong mỏi, cả một dòng họ mong mỏi. thế mà nỗi đau ấy đã :
“Đậy lại niềm hy vọng của dòng họ
Đang mong có người nối
dõi tông đường”
Cái chất độc ghê người ấy không phải đem đến cho riêng những người lính
“xấu số” mà cho vợ, cho cho gia đình, cho cả dòng họ. Hàng trăm dòng họ
có thể bị tuyệt tự do cái chất độc đi-ô-xin chết người kia:
“Thằng con trai sẽ mãi còn thơ bé
Chẳng bao giờ thành một người đàn ông
Một dòng họ không người nối dõi
tổ tông”.
Thử hỏi có nỗi đau nào xót xa hơn, có tội ác nào lớn hơn thế, kẻ ác chưa
một lần đền tội, tòa án đâu sao không minh xét.
“Nỗi đau mang màu da cam” là
một tác phẩm hiện thực, một di phẩm để muôn đời con cháu mai sau biết đến, một
bản cáo trạng đanh thép tố cáo giặc Mĩ xâm lược của Bành Phương Lan. Mặc dù câu thơ chưa được mượt mà, còn kể lể dài
dòng chưa cô đọng. Nhưng chị cũng đã chia sẻ được những đầy vơi, những mất mát
xót xa của những người lính không may mắn, đó cũng là tính nhân văn trong thơ
của chị. Chúc chị giầu cảm xúc hơn để có những vần thơ hay hơn nữa.
TA CÙNG ĐẾN “NƠI ẤY”- NƠI HỘI TỤ TINH
HOA NGÔN NGỮ, ĐƯỢC CHẮT LỌC TỪ VỊ ĐỜI CỦA
VIỆT HỒNG
NƠI ẤY
Trong quán nhỏ chúng tôi ngồi tâm sự
Trò chuyện với thơ, trò chuyện với đời
Ngồi cạnh tôi có một người con gái
Mới thoáng nhìn đã cất được lời ca.
Em hồn hậu như hoa
Không dị ứng sắc màu quá khứ
Em vô tư như như lịch sử
Không tù túng tình yêu và lẽ vợ chồng.
Em phá vòng “Kim cô”nhỏ hẹp
Tung cánh chim bay lượn giữa trời
Tần tảo sống và tần tảo mơ mộng
Tìm kiếm trong đời người mình thích mình yêu .
Mắt em xanh một khoảng trời xanh mới
Vừa xa xăm, lại vừa gần gũi
Vừa da diết lại vừa lơ đãng
Chứa trăng sao bão táp cuộc đời .
Em như thần Vệ Nữ trong thơ
Mà thơ không viết nổi
Giữa ồn ào thật giả
Sang hèn, hoa lệ, hắt hiu.
Tôi ngắm bạn, ngắm em
Mới biết mình nghèo
Nghe em đọc câu thơ của bạn
Vời vợi nhớ thương nơi ấy chân cầu
Nước mắt tràn ra tắm nỗi đau
Chảy vào câu thơ bỏ ngỏ
Tôi lặng im
Lắng nghe
Tiếng tình yêu
Phát ra từ miệng chén
Thơm mùi men rượu…Từ em.
Việt Hồng - 10 - 2009
Lời bình :
Nhân đọc bài thơ “Nơi ấy”của Việt Hồng, tôi lại nhớ đến nữ sĩ Hồ
Xuân Hương, đã một thời có một quán thơ. Ngày nay Việt Hồng anh có “Nơi ấy”, “Nơi
ấy” chính là cái quán nhỏ thân thương mà nhà thơ hay lui tới, là nơi hội tụ
những tinh hoa của ngôn ngữ được chắt lọc từ vị đời. nhưng “Nơi ấy” của Việt Hồng không hạn hẹp trong cái quán nhỏ kia, mà có thể là nơi: “Em hẹn anh đến dưới chân cầu / Nơi tình yêu
bắt đầu từ ngô lúa”, (Lê
Nghiêm) hoặc
là nơi: “Nước mắt tra ra tắm nỗi đau
/chảy vào câu thơ bỏ ngỏ”(Lê Nghiêm) Từ “Nơi ấy” Việt Hồng đã bắt gặp một tâm hồn người con
gái:
“Hồn hậu như hoa
Không dị ứng sắc mầu
quá khứ”
Cái mà nhà thơ gọi là “sắc mầu quá
khứ” kia, chính là sự mặc cảm, sự áp đặt, những lời đàm tíu, những thói
quen đã thành tục lệ của lễ giáo phong kiến, trút lên đầu người phụ nữ. Nhà thơ
đã nhìn thấy một người con gái có bản lĩnh, biết chấp nhận, biết chớp nhanh cái
khoảnh khắc thời gian quí giá, biết đấu tranh để giành lấy tình cảm riêng tư
của mình trong cuộc sống. Đấy là những tâm hồn trong sáng họ biết trách nhiệm
và bổn phận của mình là làm vợ, làm mẹ, biết thương chồng thương con để hướng
tới một cuộc sống tự do và hạnh phúc, không chịu tù túng về tình yêu và lẽ sống
vợ chồng.
Bài thơ “Nơi ấy” chính là một
bài phóng sự của Việt Hồng, anh có
cái nhìn rất tinh tế sâu thẳm vào cuộc sống đời thường của một văn nghệ sĩ, thông qua hình ảnh người con gái ta đã
thấy được ít nhiều cái chân thật của mỗi con người. Cái mà nhà thơ gọi là “vòng kim cô nhỏ hẹp” kia chính là một lối
sống ích kỷ, một áp chế vô lí, thiếu tự do, không công bằng mà người phụ nữ,
người vợ phải thiết thòi, phải hứng chịu.
Thơ anh lên tiếng đấu tranh cho những người vợ, cho phụ nữ. Bởi trong đời
thường tại sao có những cái người chồng có mà người vợ không có, người chồng được mà người vợ không được.
Nhà thơ đã nhìn thấy sự bứt phá tự thoát ra khỏi những ràng buộc vô lí ấy :
“Em phá vỡ vòng “Kim cô”nhỏ hẹp
Tung cánh chim bay lượn
giữa trời”.
Khi đã tới một chân trời mới, một không gian mới, tâm hồn sẽ thanh thản,
tư tưởng thoải mái hơn, yêu đời, yêu cuộc sống hơn. Việt Hồng như nhìn thấy được tâm hồn của cô gái đang hưởng thụ
những giây phút tự do:
“Mắt
em xanh một khoảng trời xanh mới
Vừa xa xăm lại vừa gần gũi
Vừa da diết lại vừa lơ
đãng
Chứa đựng trăng sao bão táp cuộc đời”.
Cô gái như chim sổ lồng “Giữa
những ồn ào, thật giả, sang hèn, hoa lệ, hắt hiu” náo nhiệt của cuộc sống.
được hưởng những phút tự do, cô thấy mình hạnh phúc nhưng cũng rất âu lo. Nhà
thơ Việt Hồng, anh vẫn biết trong cái vòng luẩn quẩn kia, cô gái cũng như
người phụ nữ, người vợ luôn bị ràng buộc tù túng suốt đời họ phải:
“Tần tảo sống và tảo tần mơ mộng
Tìm kiếm trong đời người
mình yêu mình thích”
Việt Hồng là nhà thơ đa sầu đa cảm, anh biết thông cảm cho những người
phụ nữ những người vợ luôn tần tảo với chồng với con, mà đến cả mộng mơ cũng
phải tảo tần thì thật là quá thiệt thòi. Phụ nữ luôn là người chịu thiệt thòi,
lẽ ra cần phải bù đắp nhiều cho họ mới phải. Những ham muốn, những khát khao
tình cảm riêng tư, họ đều phải dấu kín trong lòng. Bởi họ luôn bị trói chặt
trong cái vòng “Kim cô nhỏ hẹp”ấy.
Anh thương cho những người không thoát ra khỏi nơi tù túng ấy mà thấy :
“Vời vợi nhớ thương nơi
ấy chân cầu
Nước mắt tràn ra tắm
nỗi đau
Chảy
vào câu thơ bỏ ngỏ”.
Đúng là thơ và đời, Việt Hồng “ngắm bạn, ngắm em” mà
thấy lòng mình tui tủi và mới biết mình nghèo. Anh không nghèo tiền nghèo bạc,
mà anh thấy lòng mình trống trải, bâng khuâng. Có lẽ còn bao người khác cùng
chung số phận như anh, chưa thoát khỏi ra cái vòng “Kim cô” luẩn quẩn kia. “Nước
mắt anh tràn ra tắm nỗi đau” và đang “chảy vào câu thơ bỏ ngỏ”. Anh đang “lặng im, lắng nghe tiếng tình yêu” thủ thỉ. Lắng nghe hơi thở của
đời thường, không gian nhộn nhịp mà bình yên. Chúng tôi đang đợi những trang
thơ đằm thắm, thiết tha như thế này của anh. Chúc anh viết hay hơn.
“THÁNG BA VỚI TÔI” LÀ NỖI BUỒN MAN
MÁC CỦA NHÀ THƠ MINH
HIỀN
THÁNG BA VỚI TÔI
Một mình, tháng ba ở lại
bên tôi!
Hoa Tigôn trước nhà đỏ
hồng lên ba mảnh
Xác hoa gạo bên đường
dựng thành một cảnh
Cánh rụng, đài rơi,
thương lắm hoa ơi.
Vẫn biết cạn ngày tôi
cúi xuống nhặt chơi
Cánh hoa nhạt nhòa trên
tay tôi im như thóc
Tháng ba âm u, mưa dầm
dề như ai khóc
Nặng trĩu triền sông hoa
cải chẳng phất phơ.
Trăng tháng ba như thực,
như mơ
Rẽ vào lối xưa, đâu thơm
nồng hoa nhãn
Mẹ ở nơi nào mà lạc bầy
chim nhạn
Thảng thốt bay rồi,
thương lắm tháng ba ơi!
Không gian này như thể
chơi vơi
Con tìm mẹ trong muôn vàn
thương nhớ
Nụ bòng bòng xanh xanh e
ấp
Cầu ao mùa này chẳng còn
mẹ giữa tháng ba!
Lời bình :
Trái đất mình thật đẹp, Việt
Ngay cái tên của bài thơ, nó đã mang một nét buồn riêng rồi,
“Tháng
ba với tôi”, hay tháng ba của riêng tôi, chắc tác giả có điều gì đó rất
riêng... Tháng ba là tháng của cuối mùa xuân, nên với mọi người thì ít nhiều
còn mang hương vị của mùa xuân lễ hội. Như nhà thơ N.T cũng đã viết về tháng
ba, giọng thơ anh rất vui, nghe như mùa xuân đang phơi phới, mà còn ngan ngát
thơm của tiết giao mùa :
“Trong vườn xuân hoa tranh hạ cánh
Góc sân nhà đã hết nắng
hanh
Chỉ còn thấy vương đầy
hương bưởi
Hoa xoan bồng bềnh lớp
lớp rơi”.
( Tháng ba )
Nhà thơ Minh Hiền đã vẽ một bức tranh tháng ba
phảng phất một nỗi buồn bằng một
loài hoa, nghe tên loài hoa ấy người ta đã cảm thấy
buồn rồi. Đó là hoa Tigôn, một loài
hoa còn có tên là “hoa tim vỡ”, đây
cũng là nghệ thuật của người cầm bút, bởi trong tiết tháng ba còn có rất nhiều
các loài hoa, nhưng Minh Hiền lại chọn loài hoa này, thì thật là
khéo léo:
“Hoa Tigôn trước nhà đỏ hồng lên ba mảnh”
Chưa đủ, trong
tháng ba của nhà thơ còn có hoa gạo, hoa cải. Hoa gạo thì không mang một nỗi
buồn gì, nhưng cánh hoa rơi tơi tả trong thơ thì thật buồn:
“Cánh rụng, đài rơi thương lắm hoa ơi!
Vẫn biết cạn ngày tôi cúi xuống nhặt
chơi
Cánh hoa nhạt nhoà trên tay tôi im
như thóc”.
Cánh hoa đã rụng,
cánh hoa còn nhạt nhoà, im lìm như thóc thì buồn lắm. Cánh hoa rụng là lẽ đương
nhiên rồi, nhưng còn đài rơi, đài hoa đã rơi thì lấy đâu ra kết trái. Đó là cái
rất logic của Minh Hiền để tạo nên
một nỗi buồn trong thơ, một nỗi buồn êm êm, nhẹ nhàng man mác. Qua những từ “xác hoa”, “nhạt nhoà”, “im như thóc” đã
chứng minh được điều đó. Thời tiết thay đổi là lẽ tất nhiên, trong tháng ba của
Minh Hiền còn có cả mưa, và trăng :
“Tháng
ba âm u, mưa dầm dề như khóc
Nặng trĩu triền sông, hoa cải chẳng
phất phơ
Trăng tháng ba như thực như mơ”
Những giọt mưa rơi tí tách, những ngày mưa dầm dề đều tạo nên
những cảnh buồn buồn. Hình ảnh hoa cải trong thơ của chị cũng vậy, im lặng như
tờ không còn phất phơ bay như trước nữa, “nặng
trĩu triền sông” hay nặng trĩu một nỗi buồn. Mưa buồn là vậy, hoa cải buồn
là thế, còn trăng nữa, Minh Hiền lại
đưa trăng vào tháng ba cũng là một nghệ thuật viết, vì tháng ba đâu phải mùa
trăng, cho nên trăng trong thơ của chị cũng rất buồn, “như thực như mơ”, mờ mờ ảo ảo, đâu như trăng của Hàn Mặc Tử :
“Ta hẵng đưa tay choàng trăng đã
Mơ trăng ta lượm tơ trăng rơi”.
(Say
trăng )
Trong cái tiết
cuối xuân ít người viết thơ buồn như Minh
Hiền, có lẽ trong tâm trạng nhà thơ có nhiều điều uẩn khúc, thơ của chị
buồn man mác như nàng Kiều của Nguyễn Du trong tiết thanh minh :
“Sè sè nấm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.
(Truyện Kiều)
Đọc đến đoạn cuối của bài thơ ta lại
thấy xuất hiện hình ảnh chim nhạn, mà lại là chim lạc đàn tìm mẹ có lẽ Minh
Hiền đã hé mở cho độc giả biết vì sao mà buồn:
“Mẹ ở
nơi nào mà sao lạc bầy chim nhạn
Thảng thốt bay rồi, thương lắm tháng ba ơi!”
Chim nhạn bay về là
báo hiệu mùa xuân tới, và khi chim nhạn gọi nhau bay đi cũng là lúc mùa xuân đã
cạn. Đọc đến đoạn kết ta mới hiểu ra những nỗi buồn ấy chính là thiếu vắng một người thân đó là
mẹ :
“Con tìm mẹ trong muôn vàn thương nhớ
Nụ bòng bòng xanh xanh e ấp nở
Cầu ao mùa này chẳng còn mẹ giữa tháng
ba”.
Bài thơ “Tháng
ba với tôi” đã được đăng tải trên tập san: Thi đàn thơ Trường Xuân tập
2. Lời thơ mượt mà đằm thắm thiết tha, giọng thơ rất con gái, mạch thơ liền
không rời rạc, giầu hình ảnh, được chọn lọc. Bài thơ viết rất có kỹ thuật, cả
bài thơ chị cứ tả cảnh, cảnh thật đẹp mà buồn, độc giả chưa hiểu được vì sao mà
buồn, chỉ có hai câu kết cuối cùng ta mới vỡ lẽ ra nỗi buồn ấy chính là nhớ mẹ,
thiếu vắng người thân. Đó là một thành công của người cầm bút. Chúc chị viết
nhiều hơn, chúng tôi đang đợi những bài thơ hay hơn nữa.
MÙA HOA CẢI” HAY NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI
MÙA HOA CẢI
Ai gieo vạt cải ven sông
Vàng hoa đợi ánh trăng trong bên cầu
Sáng qua khăn áo chửa nhàu
Thoắt thôi, giờ đã ngấu màu vàng dưa!
Ngọt ngào người hái sớm trưa
Trổ ngồng, xối xả dỗi mưa bão hờn
Đất cày lên những thiệt hơn
Giờ trơ gốc lá, vàng hồn ngọn hoa
Mải mê gieo khúc tình ca
Hạt mầm tức tưởi như là quặn đau
Em ngây vụng dại thuở đầu
Rồi sương chan mắt đẫm mầu hoa ơi !
Thẩn thơ nhặt nắng vàng rơi
Để ai quẩy mất một thời xuân xanh.
Minh Hiền
Lời bình:
Thiên
nhiên ưu đãi cho đất nước mình thật kì diệu, một năm có bốn mùa rõ rệt, mỗi mùa
lại có sắc thái riêng của nó, có những loài hoa thật đẹp. Mỗi lần tết đến xuân
về, trăm hoa đua nở, khoe sắc toả hương, hoa trong nhà, hoa ngoài ngõ, hoa
trong vườn, hoa ngoài đồng. Trong tiết thanh minh tháng ba, quanh nhà còn đang
vương đầy hương chanh hương bưởi, hoa xoan tim tím ngan ngát đưa hương rơi rụng
bồng bềnh đầy lối ngõ, những dậu cúc tần len lúm vấn vít vàng rực bờ ao, thì nhà thơ Minh Hiền lại thấy mầu vàng hoa của những vạt cải đẹp đến nao lòng :
“Ai gieo vạt cải ven sông
Vàng hoa đợi ánh trăng trong bên
cầu”
Tác giả đặt câu hỏi “Ai
gieo vạt cải ven sông” có thể là sự sửng sốt trước cái đẹp của thiên nhiên,
cũng có thể là sự ngậm ngùi cay đắng luyến tiếc một cái gì rất đẹp đã mất đi,
hay một sự liên tưởng từ vạt cải đến số phận của một con người. Chị xây dựng
hình tượng mầu vàng tươi tắn của hoa cải đợi “ánh trăng trong bên cầu” thật đẹp. hai mầu vàng ấy mà quyện vào
nhau thì còn gì để nói. Phải chăng đây là hai tâm hồn còn đang trong sáng tươi
trẻ hồn nhiên, căng tràn sức sống như muốn vươn lên, ngậm vào nhau để xây đài
hạnh phúc. Nhưng cũng trớ trêu thay cuộc đời của mỗi con người, đâu phải lúc
nào cũng tuân theo ý nghĩ riêng của
mình. Thời gian là một sự thay đổi khôn lường mới:
“Sáng qua khăn áo chửa nhàu
Thoắt thôi, giờ đã ngấu mầu vàng
dưa!”
Ta lại bắt gặp cái
mầu vàng ở đây, không phải là mầu tươi vàng của hoa cải, ánh vàng của trăng, mà
là mầu “ngấu vàng của dưa” một thứ đồ
ăn được chế biến từ cây cải, sắp sửa bị nẫu ra khi đã “ngấu”. Đây là lối viết rất độc đáo của Minh Hiền, một sự so sánh tế nhị mà logic. Từ cây cải còn đang mơn
mởn tươi xanh, ví như người con gái còn đang trong trắng trinh nguyên như “khăn áo chửa nhàu” phơi phới sức xuân,
mà chỉ “thoắt thôi” đã trở thành một
người đàn bà nát ngấu như dưa, dầm trong cái chát đắng của muối mặn cuộc đời.
Cái hay ở đây là dưa lại bắt đầu từ cây cải. Cải biến thành dưa, hay con người
đang yêu không được yêu, không được lấy người mình yêu, phải dứt tình để rẽ
bước sang ngang, để rồi bị vùi dập. Đấy là chưa nói đến tình yêu đôi lứa là sự
thổn thức của hai con tim, không trộn được vào nhau thì họ khổ đến nhường nào,
có ai hiểu được nỗi lòng người đang yêu. Hình tượng cây cải biến thành dưa
không phải dừng ở chỗ đắng cay chua xót trước một cuộc tình tan vỡ, mộng không
thành của tình yêu đôi lứa. Nếu như các liền anh liền chị ở nơi kinh Bắc họ tự
nguyện hy sinh tình yêu riêng tư của mình để đến với nghệ thuật hát quan họ,
lại đi một nhẽ. Tác giả còn nói lên được cái hủ tục đầy mầu sắc phong kiến trút
lên đầu người con gái, khi “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” Cũng có thể là sự “tức tưởi” vội vàng của các cô gái khi
bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Vậy thì tứ thơ ở đây lại mang đầy tính nhân văn.
Chị thông cảm cho số phận người phụ nữ như hạt mưa sa. Mười hai bến nước biết
chọn bến nào, ví như số phận cây cải được định đoạt do tay người hái :
“Ngọt
ngào người hái sơm trưa
Trổ ngồng, xối xả dỗi mưa bão hờn”
Câu thơ được tác giả
đưa vào hướng ngoại, để diễn tả tâm trạng người con gái lúc bước vào đời. Cây
cải được gieo trồng rồi trổ ngồng ra hoa nhưng không được kết hạt nhân giống.
Cho dù bàn tay của người hái có “ngọt
ngào” đến mấy, thì ngồng cải vẫn bị vùi dập đến “xối xả dỗi mưa bão hờn”. Sự hờn dỗi ấy là kết quả của cái thiếu
chín chắn nông nổi dại khờ để rồi:
“Đất cày
lên những thiệt hơn
Giờ trơ gốc lá vàng hồn ngọn hoa”
Cuộc đời như những
luống cải bị cày xới lật tung lên, xáo trộn, đau đớn, gốc rễ trơ ra, quằn quại
để đến nỗi “vàng hồn ngọn hoa”. Cho
dù cái vỏ bên ngoài đầy đủ sung túc nhưng tâm hồn thì vàng vọt, héo tàn. Mầu
vàng ở đây nghe đến rợn người. Đâu còn thấy cái mầu vàng tươi mươi của hoa cải
phất phơ trước gió, mà chỉ là cái úa tàn nham nhở của cuộc đời, rồi ân hận, xót
xa hối tiếc:
“Mải mê gieo khúc tình ca
Hạt mầm tức tưởi như là quặn đau”.
Sự hối tiếc bao
giờ cũng song hành với muộn màng, rồi dằn vặt vò xé tâm can. Lúc son trẻ thì “mải mê gieo khúc tình ca" . Gieo biết bao nhiêu mộng mị, ước mơ hoài
bão, tương lai. Trước ngưỡng cửa cuộc đời, không riêng gì các cô gái như chim
mới tập chuyền còn non nớt, dại khờ ngây thơ mà “tức tưởi”
vội vàng thì khó tránh khỏi được vập
ngã. Từ hình ảnh cây cải, tác giả hướng ngoại xây dựng một hình tượng người con
gái mới bước vào đời. Đến khổ cuối Minh
Hiền lại hoàn toàn hướng nội dẫn người đọc đến nội dung cốt yếu của bài
thơ, không còn là hình ảnh cây cải nữa, mà chính thực con người, một con người
lầm bước thiếu tự tin, không bản lĩnh:
“Em ngây vụng dại thuở đầu
Rồi sương chan mắt đẫm mầu hoa ơi!
Thẫn thờ nhặt nắng vàng rơi
Để ai quẩy mất một thời xuân xanh”
Chỉ vì một chút
ngây thơ vụng dại mà đưa đẩy cuộc đời sang một bước ngoặt. cuộc đời gió mưa
chan đầy nước mắt.
Đọc thơ của Minh Hiền ta thấy chị có cách ghép từ
thật tinh tế để câu thơ trở nên rất thơ, chuyển tải được nhiều hàm ý mà gọn
gàng xúc tích. Ba từ : “ngây, vụng, dại” nếu
ta tách ra đó chính là sự ngây thơ, vụng về, và dại khờ. Cách tu từ và nhân
cách hóa của chị thật nhuần nhuyễn để câu thơ đã hay còn đẹp, dễ hiểu. Diễn tả
người ta khóc, mà như “sương chan đẫm mắt”,
những giọt lệ như những giọt sương. Trong thơ của Minh hiền còn có hoạ, đây chính là một bức tranh cô gái đang ngồi
khóc thật đẹp. Cũng như Nguyễn Du tả nàng Kiều khóc khi gẩy đàn cho Kim Trọng
nghe khúc: “Chiêu Quân cống Hồ” :
“Ngọn
đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn
sầu”
(Truyện Kiều)
Bởi khi Kiều khóc
thương nàng Chiêu Quân, thì nước mắt làm nhòa đi, nên nhìn ngọn đèn mờ ảo không
còn tỏ nữa, và nước mắt được lau khô thì nàng Kiều nhìn ngọn đèn lại tỏ, quả là
một tài thơ. Minh Hiền khóc cho
những số phận không may mắn, trách mình rồi lại trách người. Nếu vững vàng, bản
lĩnh, không xốc nổi, đừng dại khờ, đừng ngu ngơ thì ai có thể “quẩy mất một thời xuân xanh” của mình đi
được.
Với mười bốn câu
lục bát khá nhuần nhuyễn, mượt mà đằm thắm thiết tha, da diết. Bài thơ giầu
hình ảnh, ngôn từ chắt lọc, ý thơ đa chiều đa dạng, nhiều hàm ý, nhiều cung
bậc, lời thơ réo rắt, khắc khoải, ai oán, lúc thăng lúc trầm như những nốt nhạc
buồn. Câu thơ đã hay còn đẹp, cấu tứ chặt chẽ, bố cục mạch lạc, mở bài như pháo
nổ, kết luận như chuông ngân. Nhà thơ Minh
Hiền có cách nhìn sâu thẳm vào xã hội và con người, chị đã chia sẻ cùng độc
giả, và cũng là lời cảnh tỉnh cho những cô gái đang đứng trước ngã rẽ, ngưỡng
cửa cuộc đời. Đây cũng là điểm nhấn trong sự nghiệp văn chương của chị. Xin
chúc chị nhiều thành công.
“BÓNG QUÊ” – NỖI NHỚ QUÊ DA DIẾT
Của Minh Hiền
Tháng mười phảng phất vào
đông
Vàng hoe rang ngọn rơm đồng heo may.
Thu về khe khẽ khẽ lao xao
Chiều buông se lạnh ngậm vào heo
may.
Bến sông đó, con đò đây
Bãi dâu xưa để tơ nay rối bời.
Đâu rồi cái tuổi nằm nôi?
Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm nồng
Ngụp chan! Cha vớt lũ giông
Tràn đê con nước bập bồng bóng
em.
Nợ bà đỏ miếng trầu têm
Ông đi buồn đến ngả nghiêng đông
về.
Mảnh trăng cong cả câu thề
Trong mây diều trải bóng quê đẫy
chiều.
Lời bình :
Trong mỗi chúng
ta, ai cũng có một vùng quê thân thương, để khi đi xa mà thương mà nhớ. Một
vùng đất có mùi sữa mẹ thơm thơm, có mồ mả tổ tiên ông bà, ông vải, có những kỷ
niệm ngọt ngào của tuổi ấu thơ. Nhà thơ Đỗ Trung Quân anh nghĩ “Quê hương là chùm khế ngọt”, “Ai đi xa cũng
nhớ nhiều”.Với Minh Hiền lại là
một chuỗi những kỷ niệm đầy vơi, sâu sắc, từ cái rất gần đến cái xa xăm của
tuổi ấu thơ. Cái gần nhất đối với chị là những ngày cuối năm , những lần sum
họp trên quê hương mình:
“Tháng mười phảng phất vào đông
Vàng hoe rang ngọn rơm đồng heo
may”
Tháng mười là tháng gặt hái thu lượm
của người nông dân. Với Minh Hiền như
phảng phất mùi thơm của rơm, màu vàng của thóc, cái hanh hao của gió heo may,
cái nắng “vàng hoe” yếu ớt của tiết
giao mùa cũng đủ “rang” khô cho rơm
lên đống , cho thóc vào bồ. Từ thời điểm “Tháng
mười phảng phất vào đông” chị lại ngược thời gian đến với mùa thu thật đẹp,
mà dịu dàng:
“Thu về
khe khẽ lao xao
Chiều buông se lạnh
ngậm vào heo may”
Thu về
thật êm ả, thật nhẹ nhàng, chỉ “khe khẽ
lao xao” thôi. Tiếng gió lao xao
hay tiếng lá rơi xào xạc? Có lẽ đây là tiếng thu rơi. “Chiều buông” xuống làm ta “se
lạnh” hay lòng người “se lạnh”?
Nhưng lại “ngậm vào heo may” thì thật
là đẹp. Tôi còn nhớ một câu thơ của Việt Hồng đã viết :
“Bình minh bừng thức dậy
Cành liễu còn ngậm
sương”
Ngậm có nghĩa là không nhả, giữ lấy. Từ “ngậm” ở đây không có ý nghĩa hơn thiệt
được thua, mà là một sự níu kéo giàng buộc liên kết với nhau. Cái “se lạnh” của tiết thu mà “ngậm vào heo may” thì còn có gì đẹp hơn
thế, câu thơ đẹp như một bức tranh trìu tượng mùa thu. Cái liên kết ấy với tác
giả còn nhiều day dứt:
“Bến sông còn đó, con đò còn đây
Bãi dâu xưa để tơ nay rối bời”
Bãi dâu, bến nước, con tằm là những thứ
quên thuộc, thân thương gắn bó của nhiều miền quê. Đi xa, xa mãi chưa về, thì
lòng người cũng rối bời như câu thơ của Minh
Hiền. hình ảnh “ bãi dâu” và “tơ” tằm thật đẹp, là tình cảm đầy vơi
níu kéo, giàng buộc lẫn nhau, giữa quê hương đất nước với người xa xứ. Lúc sinh
thời Nguyễn Du khi đi xứ, nhớ đến người yêu, nhớ quê hương còn gửi gắm tình cảm
của mình vào trang Truyện Kiều :
“Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”
(
Truyện Kiều )
Từ sợi tơ
tằm còn làm vương vấn đến tình cảm của tác giả, nói gì đến những kỷ niệm thời
ấu thơ, chị lục tìm trong ngân hàng ký ức để nghe lại tiếng ầu ơ của mẹ:
“Đâu rồi cái tuổi nằm nôi?
Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm
nồng”
Tiếng mẹ ru hời, tiếng võng đưa kẽo kẹt đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi
con người đất Việt. Mỗi khi nghe thấy lời ru, ta thường nhớ đến mẹ nhớ đến quê
hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Minh
Hiền nhớ đến “Ầu ơ tiếng mẹ ru tôi ấm
nồng” thì không thể không nhớ đến cha, người đã sinh thành ra mình:
“Ngụp chan! Cha vớt lũ giông
Tràn đê con nước ngập
tràn bóng em ”
Người cha thường là trụ cột của gia đình. Bao nhiêu những công to việc lớn nặng nhọc, vất vả gian khó đều
một tay người cha gánh vác. Kể cả những lúc “Ngụp chan! Cha vớt lũ giông” để mang lại sự yên ấm hạnh phúc của
gia đình. Trong thơ Minh Hiền ta
thường gặp những từ ghép chưa có trong từ điển tiếng Việt. nhưng vẫn chuyển tải
được nội dung. Ở đây chị dùng từ “ Ngụp
chan” nếu đứng một mình thì rất khó
hiểu, đọc cả câu ta vẫn hiểu mà còn thấy hay nữa. Nếu ta tách ra thì từ “ngụp”đồng nghĩa với ngập, ta thường nói
ngụp đầu, ngập đầu, ngập đầu ngập cổ. Còn từ “chan”, ta thường nói chan hòa; chứa chan; chan đầy,
“Nợ bà
đỏ miếng trầu têm
Ông đi! Buồn cả ngả nghiêng đông về”
Nói đến nợ, trong mỗi con người chúng ta ai cũng mắc nợ. Nợ kinh tế, nợ
tình cảm, nợ bạn bè, nợ tình yêu, nợ ông nợ bà, nợ cha nợ mẹ, nợ quê hương…Nợ
nước. với Minh Hiền lại “Nợ bà một miếng trầu têm”. Chị “nợ bà một miếng trầu têm” hay chị nợ quê
hương mình, người thân của mình. Nợ tiền thì trả được, nợ tình cảm thì thật là
khó, thơ của chị như day dứt những món nợ đời. Theo qui luật của tạo hóa, lá
vàng nào rồi cũng rơi về cội, chưa đến mức độ phải “ngả nghiêng”, chỉ là một nỗi buồn man mác, nhưng đây vẫn là tình
cảm và tấm lòng của tác giả đối với người thân. Quê hương là hồn cốt của mối
con người. Với Minh Hiền lại là một
điều sâu lặng :
“Mảnh trăng cong cả câu thề
Trong mây diều trải
bóng quê đẫy chiều”
Mảnh trăng cong hay câu thề cong , câu thơ vừa hay vừa đẹp. Hình ảnh
trăng là hình tượng của phái đẹp, mà câu thề bị uốn cong đi thì tác giả còn
vương vấn , còn nợ quê hương nhiều lắm cho dù “cánh diều”của chị “trải bóng
quê” đến “đẫy chiều” .
Với mười bốn câu lục bát nhuần nhuyễn, tác giả cắt làm bẩy khổ, mỗi khổ
chuyển tải một ý khác nhau. Cái khéo của tác giả là dẫn dắt người đọc từ cái
cận đến cái viễn, rồi lại để độc giả nghĩ đến từ cái xa đến cái gần, như câu ca
dao :
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại
chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông
trắng lá xanh”
Tác giả nào đó đã đưa độc giả thưởng
thức từ bên ngoài là lá xanh, đến cái trong trắng thuần khiết là cánh hoa bông
trắng, rồi mới tới cái tận cùng sâu thẳm tinh túy là nhụy vàng. Rồi từ nhụy ra
ngoài tới lá xanh. Bài thơ tưởng như chưa có kết, bởi tình cảm của chị còn đang
dàn trải, đã cho ta thấy tình cảm của chị hòa chung với tình cảm của độc giả,
chị đã biến cái tôi của mình thành cái ta của mọi người. Đó là thành công trong
sự nghiệp văn thơ của mình.
Hà Nội - 10 - 10 – 2013
MỘT CUỘC TÌNH ĐẸP QUA THI PHẨM
LẶNG LẼ CUỐI THU
Em lặng lẽ bên anh…
Trong nồng nàn hhoa sữa
Em đi tìm một miền đất hứa
Tìm một nơi chỉ có hai người…
Không ồn ào chỉ hoa sữa rơi rơi
Tìm một chút bình yên chim hót
Trời cuối thu hương cốm bay ngòn ngọt
Nhìn mắt nhau sao vẫn thấy cay nồng.
Cuộc đời này còn ý nghĩa gì không?
Sao đầy những bon chen đố kị
Nói với nhau những điều phi lí
Cho nhẹ lòng lấp khoảng trống mênh mông.
Thu qua rồi trời sắp sang đông
Qui luật tự nhiên nào ai cưỡng nổi
Trong lặng lẽ ngàn lời muốn nói
Chỉ hoa sữa thơm nồng nói hộ hai ta.
Vũ Thị Minh Thu
Lời bình:
Tình yêu thật muôn sắc muôn mầu. Khi hai con tim đã cùng chung nhịp đập,
hai tâm hồn đã lẫn vào nhau, thì cái gì cũng chộn rộn xốn xang. Tất cả hết thảy
đều đẹp. Họ yêu nhau như khờ như dại, như mơ. Có người “Quá nửa cuộc đời vẫn chửa biết yêu / Mà chỉ được yêu trong vòng tay ân
ái” (Lê Nghiêm). Nhưng khi đã
biết yêu thì tình yêu mới thánh thiện làm sao. Họ “không chinh phục / không giành giật / không cầu mong / không ham muốn /
cho dù là điều nhỏ nhất” (Lê
Nghiêm). Có
người “Lấy nhau thì lấy xong rồi mới yêu”
(N.T), mà họ sống với nhau thật hạnh phúc đến trọn đời. Lại có người cùng
trang lứa trinh trắng không yêu, đi yêu người đã có gia đinh để trở thành kẻ
thứ ba, để rồi khổ đau, để rồi dằn vặt. Thật là rắc rối. Có lẽ chỉ có những
cuộc tình dang dở không thành, họ chôn chặt tận đáy lòng, cứ thế… Cứ thế… Mới
thật là đẹp.
Trong “Lặng lẽ cuối thu” của Vũ
Thị Minh Thu tác giả đã thêu dệt nên một cuộc tình đẹp như mơ, cuộc tình không thành, để suốt cuộc
đời luôn nhớ đến nhau, tìm đến nhau để được cùng nhau đi “Trong nồng nàn hoa sữa”, tìm lại những kỉ niệm xưa, tìm lại “Một miền đất hứa”, nơi có những lời thề,
“Không ồn ào hoa sữa rơi rơi” “một chốn
bình yên chim hót”, rồi “Nhìn mắt
nhau sao vẫn thấy cay nồng” , lặng lẽ bên nhau không nói nên lời. bởi những
lời muốn nói ra biết đâu là những lời dằn vặt của con tim còn đang thổn thức,
hoặc những lời trách khứa nhau để rồi càng thêm đau khổ. Họ có biết đâu khi đến
được với nhau thành vợ thành chồng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Bát đũa nào
mà chẳng có lúc xô. Vợ chồng suốt đời không bao giờ bất hoà mới là chuyện lạ.
Bài thơ “ Lặng lẽ cuối thu” Vũ Thị Minh Thu viết theo lối tự sự, chị
như kể lại một một cuộc tình. Từ “Em” như một nhân vật trong truyện. “Em lặng lẽ bên anh”, chắc hẳn em còn yêu
anh nhiều lắm, khi em đã có chồng. Người chồng lại không phải là cái mẫu của
nhân vật “em”, bới :
“Cuộc
đời này còn ý nghĩa gì đâu ?
Sao đầy những bon chen
đố kị
Cái “Khoảng trống mênh mông”
là cái nuối tiếc, cái dằn vặt con tim của người luôn nhớ đến mối tình đầu.
Nhưng “Nói với nhau những lời phi lí”và những bức xúc, bon chen, những đố
kị dù là của gia đình hay xã Nói với nhau những lời phi lí
Cho nhẹ lòng lấp
khoảng trống mênh mông”.
hội thì làm sao mà cho “Cho nhẹ lòng”được. Câu thơ đọc qua tưởng
như vô lí, bởi những điều tiêu cực kia chỉ có làm cho ta thêm khó chịu. Nhưng
có ai hiểu được cái “khoảng trống mênh
mông”đến vô tận của người đang yêu mà không được yêu. Vậy nên “Nói với nhau những điều phi lí” và những
câu chuyện phiếm là để lấp đi cái “ Khoảng
trống mênh mông”của người si tình đang còn tiếc nuối, lại làm cho vơi nhẹ
lòng mình thì lại là có lí“Thu qua rồi”
hay cuộc đời đã đến lúc xế chiều mà vẫn ấp ủ một mối tình. “Trời sắp lại sang đông” hay con người
sắp về nơi thiên cổ. Câu thơ như lời an ủi bởi “Qui luật tự nhiên nào ai cưỡng nổi”. Họ lại đi bên nhau, có lẽ hai
tâm hồn vẫn còn tươi trẻ lắm. “Trong lặng
lẽ ngàn lời muốn nói / Chỉ hoa sữa thơm nồng nói hộ hai ta”rằng chưa bao
giờ em hết yêu anh.
Bài thơ có 4 khổ 16 câu viết theo thể tự do, không reo vẫn, mà ta vẫn
thấy rất êm rất ngọt, bởi giọng thơ của Vũ
Thị Minh Thu mượt mà giầu nhạc điệu, đây là yếu tố quan trọng của người cầm
bút mà tác giả đã có được. cấu tứ chặt chẽ, thể thơ tự sự mà tránh được kể lể,
những câu thơ chỉ để độc giả suy ngẫm, ngay tên bài thơ “Lặng lẽ cuối thu” cũng đã
chứng minh được điều đó, lặng lẽ cuối mùa thu, hay lặng lẽ lúc tuổi đã cuối
thu? Và cũng là “CÓ MỘT THỜI ĐỂ NHỚ” để thương.
Hà Nội ngày 02 - 3 – 2014
TIẾNG GỌI CON “MINH HIỀN ƠI!”
HAY TIẾNG LÒNG THỔN THỨC
MINH HIỀN ƠI!
Má thương con lắm
Hiền ơi!
Bỗng dưng gió giật, đất trời đảo điên
Con là con gái có duyên
Tài hoa chẳng kém, dịu hiền dễ thương
Tưởng rằng mộng đẹp vấn vương
Ngờ đâu xã hội nhiễu nhương lan tràn
Thôi con đừng rút ván sàn
Còn người còn lụy - nẻo đàngcòn phơi
Coi như không gặp trên đời
Vô duyên một đoạn, nụ cười héo hon
Để lòng thanh thản sớm hôm
Cứ vui con cháu, chẳng hờn giận ai
Đời người ngắn lắm con ơi!
Vui câu lạc bộ thảnh thơi đánh cầu
Tội người, người chất nặng
đầu
Ra đi sẽ hối, qua cầu sẽ rơi
Đừng buồn nữa
nhé! Hiền ơi!
Cứ vô tư, cứ nghỉ ngơi…Mặc người
Hoàng
Hiệp 06h/21/10/2007
Lời bình:
Dường như con người ta sinh ra đều có
số phận, số phận như được an bài. Có những người suốt đời hưởng vinh hoa phú
quý, có người cả đời long đong lận đận nghèo túng, có người “đứt gánh giữa đường” để nửa cuộc đời
sống cô đơn hiu quạnh, lại có người kinh tế đầy đủ mà không đủ đầy, bởi trong
lòng héo khô thui chột…Nhất là phận con gái mười hai bến nước, biết bến nào đục
bến nào trong. Có người mẹ người cha nào sinh con ra, khi tác hợp thành thân cho
con lại muốn con mình khổ hạnh. Tất cả họ đều muốn cho con mình được sung sướng,
hạnh phúc, vui vẻ an nhàn. Nhưng trớ trêu thay, cái gọi là “số phận con người” lại thường không theo
ý muốn con người. Và thế rồi phó thác mặc đời, hoặc rẽ ngang tìm bến mới, mà
chắc gì bến mới đã hay hơn. Tạo hóa sinh ra như một mớ bong bong, mà có lẽ thế
mới thành xã hội.
Nhà
thơ Hoàng Hiệp viết mười tám câu lục
bát, là những tiếng kêu đứt ruột, dứt gan, ngay đề tài bài thơ bà đã thảm thiết
gọi con “Minh Hiền ơi!”. Có người mẹ
nào mà không xót xa đau đớn khi thấy con mình hoạn nạn. Thương con bà như nấc
lên đau đớn :
“Má
thương con lắm Hiền ơi!
Bỗng dưng gió giật, đất
trời đảo điên”
Đất
trời đảo điên, hay lòng bà điên đảo? Phải chăng đây là cú sốc lớn với con gái
bà. Qua từ “Bỗng dưng” ta thấy hoàn
cảnh xẩy ra không hề bình thường, một sự thay đổi đột ngột. Cái đột ngột ở đây
lại là “Gió giật, đất trời đảo điên”.
Cách dùng hình ảnh hướng ngoại của nhà thơ, làm cho độc giả nghĩ đến một sự tàn
phá đến ghê gớm. Cái hay ở cách sử dụng ngôn ngữ trong thơ, khiến độc giả liên
tưởng từ hướng ngoại đến hướng nội là sự đổ vỡ, rạn nứt của hạnh phúc gia đình,
mà con gái bà đâu phải là con người hèn kém, hư đốn, đần độn gì cho cam:
“Con là con gái có duyên
Tài hoa chẳng kém, dịu
hiền dễ thương”
Thành
ngữ có câu “Nhìn lên thì chẳng bằng ai,
nhìn xuống chẳng ai bằng mình”. Con gái bà, bà nuôi bà biết, đâu phải tự
nâng cao phẩm giá. Đây là bài thơ tả thực, tự sự theo chiều mặt phẳng, một
trang nhật ký viết bằng thơ. Nhân vật Minh
Hiền con gái bà ngoài đời quả là một cô gái có duyên, hào hoa phong nhã,
dịu hiền, nết na, dễ thương dễ mến, dễ gần, đẹp người đẹp nết. Một cô gái được
dậy dỗ trong một gia đình nề nếp gia phong, có đủ tứ đức“Công dung ngôn hạnh” của người con gái. Cô có chuyên môn giỏi
trong nghiên cứu sinh học, được nhiều người yêu mến. Cô còn là một nhà thơ được
nhiều người trong giới văn học ngưỡng mộ thế mà:
“Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt,
người phàm rửa chân”
(Ca dao)
Có
lẽ Minh Hiền con gái bà là một trong
những cô gái xấu số. Cô như cái giếng trong sạch, lẽ ra phải được nâng niu giữ
gìn như một kho báu, thế mà còn có kẻ phàm phu tục tử chà đạp lên nhân phẩm cô
một cách phũ phàng. Có ai biết được chữ ngờ, tạo hóa đã đặt bày. Nhà thơ Hoàng Hiệp cũng như bao bà mẹ khác, “Tưởng rằng mộng đẹp vấn vương”. Nhưng có
“Ngờ đâu xã hội nhiễu nhương lan tràn”.
Bà xót xa con gái bà, nhưng con gái bà cũng chỉ là một trong những nạn nhân của
thời mở cửa. Với tư cách của một người mẹ đầy tính nhân văn bà vẫn khuyên con
bà:
“Thôi con đừng rút ván sàn
Còn người còn lụy - nẻo
đàng còn phơi”.
Hình
ảnh “Rút ván sàn” bà khuyên con “đừng rút” đâu phải phó mặc cuộc đời
buông trôi, con người bà thật phúc hậu, bà vẫn nghì rằng “Còn người còn lụy” và cái thật vẫn là sự thật cái gì đến nó sẽ
đến, cái gì đi nó sẽ đi. Những kẻ bất nhân thất đức “Coi như không gặp trên đời”. Nói là vậy nhưng câu thơ khắc khoải
như dao cứa vào lòng:
“Vô
duyên một đoạn, nụ cười héo hon”.
Người
mẹ nào đẻ con ra, nuôi con khôn lớn khi thấy con mình quằn quại mà không đau
đớn xót thương. Tác giả tự trách mình một cách vô cớ, dằn vặt tâm can, lời thơ
thổn thức như hối hận điều gì, chỉ “Vô
duyên một đoạn” rồi để sợi tơ hồng thành mớ bòng bong, để “Nụ cười héo hon” méo mó với
những ngày còn lại. Câu thơ dung dị như lòng mẹ, đầy tình nhân hậu che chở
con mình, bà khẽ an ủi khuyên con:
“Để
lòng thanh thản sớm hôm
Cứ vui con cháu chẳng
hờn giận ai
Đời người ngắn lắm con ơi!
Vui câu lạc bộ, thảnh
thơi đánh cầu”.
Đời
con người ta sống có ích tính trung bình có sáu mươi năm. Cái gì mất đã mất cái
gì còn vẫn còn, có những cái tồn tại không dùng được cũng cần coi như đồ phế
thải :
“Ta hãy giữ những gì ta đang có
Ta vứt đi những thứ
không cần dùng”.
(Luân hồi N T)
Hãy cứ sống vui, sống khỏe với con
với cháu, chia sẻ buồn vui cùng bè bạn, chính là liều thuốc bổ thần tiên, và là
khoảng trời riêng của mình. Những vần thơ cuối bài làm ấm lòng con gái mình, và
cũng làm người đọc đỡ mủi lòng. Đoạn kết nhà thơ triết lý như một sự nhân quả:
“Tội người - người chất nặng đầu
Ra đi sẽ rối, qua cầu
sẽ rơi”
Tình
thương của người mẹ thật bao la như biển cả, câu kết cuối cùng bà viết như vẫn
sợ con mình khổ đau bà không quên nhắc lại lời khuyên nhủ con mình như một điệp
khúc vang ngân trong tâm trí cô con gái yêu đáng thương của mình, bà lại gọi
tên con Minh Hiền lần nữa:
“Đừng buồn nữa nhé! Hiền ơi!
Cứ vô tư, cứ nghỉ
ngơi, mặc người”
Câu
thơ bị đứt đoạn bởi dấu chấm than (!) như
tắc nghẹn trong cổ rồi mới bật ra gọi “Hiền ơi!” , và dấm chấm lửng (…) như tiếng nấc trong lòng. Bà biết
con mình khổ lắm, đau lắm nhưng biết làm sao. Nếu là gánh nặng mẹ đã gánh đỡ
con rồi. Lời thơ như tự trách khứa chính mình “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Nếu con vui thì mẹ cũng nhẹ lòng.
Nhưng những nỗi đau đã hằn sâu vào máu thịt, như chích vào tim gan, như giằng
như xé. Mẹ biết, mẹ hiểu lắm. Mẹ còn cảm thông như hai người đàn bà với nhau,
con vô tư làm sao được, con an lòng làm sao được. Vết thương lòng trong con như
đang còn rỉ máu. Câu thơ an ủi con mà như cào cấu tâm can mình, day dứt ân hận
một điều gì. Nhưng lại là an ủi chính mình.
Mười
tám câu lục bát là một trang nhật ký của nhà thơ Hoàng Hiệp có một cấu tứ bố cục chặt chẽ. Giọng thơ ngọt ngào, mộc
mạc, dung dị mà đằm thắm thiết tha, da diết. gợi cảm, gợi thương đến gai người.
Hai câu đầu bà mở bài như pháo nổ, như tiếng lòng người mẹ khóc con, rất ăn
nhập với hai câu kết như những nốt nhạc âm vang dội vào lòng người. Tác giả
trải lòng mình cho con, cho cháu, cho những người thân, cho nhân loại, cho độc
giả thấy tình cảm của một người mẹ đang đau đớn nhìn con mình gặp nạn.Và đây
cũng là tình cảm của những người mẹ Việt Nam, những người phụ nữ, với những đứa
con thân yêu dứt ruột của mình đang đắm chìm trong bể khổ. Bài thơ là nốt chấm
son trong sự nghiệp thơ văn của bà. Xin chúc bà mạnh khỏe và nhiều cảm xúc mới
để có những thi phẩm mới, cho độc giả cùng chia sẻ
Hà
Nội ngày 02 / 9 / 2014
TA CÙNG NÍU GIỮ CÁI “HƯƠNG MUỘN CUỐI
MÙA” CỦA HỒNG VÂN
HƯƠNG
MUỘN CUỐI MÙA
Đường trần lạc sao vẫn đứng bơ vơ?
Tôi
ngơ ngác giữ màn đêm rơi rụng
Nhạc âm vang người ơi! Sao lúng túng?
Ảo vọng vu vơ mải quên nốt nhạc chờ.
Em sinh ra đâu có biết làm thơ
Mình một lối đưa ta vào dòng chảy
Nét trời sinh phận số là như vậy
Giữ được hay chăng? Hương muộn cuối mùa.
Vương tóc thề, ngọt lịm chút hương đưa
Cố tìm lại con đường xưa vương kỷ niệm
Liễu buông rèm, cánh bằng lăng rắc tím
Giữa muôn trùng lặng lẽ ánh sao rơi.
Hồng Vân
Lời bình
Cuộc đời của mỗi con người, ai mà không
có lúc buồn vui thăng trầm. Thi phẩm “Hương muộn cuối mùa” với
12 câu thơ, được chia làm 3 khổ, viết theo thể tự do vần liền chuẩn mực.
Hồng Vân chị đã gửi gắm tâm sự của mình
để chia sẻ cùng độc giả. Đây là bài thơ mang hơi thở buồn buồn nhưng có sức vươn
lên trong cuộc sống.
Khổ
đầu là tâm trạng hẫng hụt như đã mất đi cái gì đó lớn lao làm lòng người ngơ ngác,
bâng khuâng, lạc lõng, trầm tư. Thiếu đi sự tập trung, nốt “nhạc chờ” vang lên của đầu dây bên kia cũng làm chị lúng túng ,
hay chỉ vì những “ảo vọng vu vơ” tâm
tư như bị xáo trộn:
“Đường trần lạc sao vẫn đứng bơ vơ?
Tôi
ngơ ngác giữa màn đêm rơi rụng
Nhạc âm vang người ơi sao lúng túng?
Ảo vọng vu vơ mải quên nốt nhạc chờ”.
“Đường trần lạc” hay cuộc đời lạc lõng đơn côi bơ vơ,
hay cuộc đời phong trần làm chị lạc lối đi về, trước sự mất mát đau thương, bi
ai khổ lụy. “Màn đêm rơi rụng” chính
là cái con người ta không níu lại được, nó trôi đi như thời gian không bao giờ
trở lại, như một sự hoang tàn đổ vỡ. Hình ảnh “màn đêm rơi rụng” cũng chính là bóng tối đã ập đến. Nếu không vững
vàng con người ta có thể đi đến chỗ hoang tưởng rồi sụp đổ. Cuộc đời là vậy,
cái gì đi cứ đi, cái gì đến cứ đến. Có ai biết trước được cuộc đời mình rồi sẽ
ra sao. Cuộc đời đưa đẩy, đẩy đưa theo con tạo xoay vần. Cũng như Hồng Vân chị biết đâu mình lại trở
thành một người thơ:
“Em sinh ra đâu có biết làm thơ
Mình một lối đưa ta vào dòng chảy”.
Thực tế
đã có không ít người trở thành nhà thơ bởi trong tâm hồn họ chứa chất nhiều
điều uẩn khúc, gai góc trái ngang. Họ âm thầm không nói ra được, tất cả đã gửi
gắm vào những trang thơ. Nhất là trong thời kỳ thế kỷ XX và XXI, nền văn học
Việt
“Liễu buông rèm, cánh bằng lăng rắc tím
Giữa muôn trùng lặng lẽ ánh sao rơi”.
Hình ảnh “Liễu buông rèm” thật đẹp nó gợi tả một không gian thơ mộng, như cụ
Nguyễn Du đã tả trong truyện Kiều:
“Lơ
thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên
cành mỉa mai”
(Truyện Kiều)
Hình ảnh đẹp làm cho câu thơ đẹp, những “cánh bằng lăng rắc tím” nói lên mối tình chung thủy khó phai mờ của
tác giả Hồng Vân , và cũng không bao
giờ quên được những đớn đau như “ánh sao rơi” lặng lẽ giữa muôn trùng vũ
trụ bao la.
Bài
thơ chị viết với giọng trầm buồn, có hậu, giàu hình ảnh gợi cảm, với thủ pháp
nghệ thuật cao, ý tại ngôn ngoại, bắt người đọc phải suy ngẫm, đa chiều đa
dạng, ngay đề tài bài thơ “Hương muộn cuối mùa” cũng đã rất ảo. “Hương muộn” cũng chính là cái thăng hoa của cuộc đời chị lúc tuổi đã
xế chiều. Bài thơ viết theo thể tự sự mà không vướng phải lỗi kể lể. Cấu tứ
chặt chẽ mà chưa chặt chẽ, nếu như khổ thứ 2 mà đưa xuống làm khổ kết (khổ 3)
thì rất hay. Dù sao chăng nữa đay cũng là bước tiến vượt rào trong sự nghiệp
thơ văn của chị.Chúc chị hạnh phúc. Chúng tôi đang đón đợi những thi phẩm hay
hơn nữa
Hà Nội
ngày 08 - 9 - 2014
TA HÃY XEM
NỖI LO LẮNG TRĂN TRỞ CỦA
NỮ SĨ MINH HIỀN QUA BÀI THƠ “LỆCH”
LỆCH
Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa
Sợ mưa bong bóng cứ đùa
Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi
Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng.
Lời bình
Trong
dân gian mọi người thường nói “Thế gian
được vợ hỏng chồng / Mả táng hàm rồng mới được cả đôi” . Đó là sự triết lý
của ông cha ta từ bao đời nay, tất cả mọi việc trên đời, ít có sự hoàn hảo, mà
hoàn hảo đến tuyệt đối lại càng khó. Chỉ sáu câu lục bát nhà thơ Minh
Hiền đã khắc họa nên điều đó. Cũng giống như câu ca dao:“Bây giờ chồng thấp vợ cao / Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Đó
chính là cái lệch nhau trong cuộc sống. cũng chính vì thế nên tác giả sợ nhiều
điều:
“Sợ rằng đêm vẫn khoác đen
Sợ ngày bỏng rát, để
duyên cạn mùa”
Nhà
thơ sợ “đêm vẫn khoác đen” hay sợ cái
bóng tối cứ bao trùm mãi cuộc đời. Những đau thương, mất mát khổ đau, những dằn
vặt, cô đơn... Cứ đeo đẳng theo suốt cuộc đời. Ở đây ta được thấy tác giả dùng
phép tu từ thật độc đáo, từ “đêm” có
nghĩa là tối, mà đã tối thì phải “đen”. Từ “đen” đồng nghĩa với tối, mà đã tối tức
là “đêm”. Đọc câu thơ ta thấy cái thi
vị của thơ , ta thấy giá trị của ngôn ngữ trong thơ, ta thấy yêu thơ hơn. Câu
thơ nó hay ở chỗ “đêm vẫn khoác đen”.
Đã đêm rồi, đã tối tăm rồi, đã đen rồi còn khoác thêm đen. Thử hỏi cuộc đời đen
tối, khổ hạnh đến bao giờ mới nhìn ra ánh sáng. Từ “khoác” ở đây thật thú vị, “khoác”
gần đồng nghĩa với trùm, cuộc đời đã tăm tối còn trùm thêm đen bạc thì khổ sở
biết chừng nào. Đấy là Minh Hiền sợ
cái bóng đêm dài dằng dặc. Còn ngày thì sao, ta hãy xem sự lo lắng của chị:“Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa”.
Cái sợ “Ngày nắng rát” của chị cũng
như Tố Hữu đã viết:
“Ngột làm sao,
chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài
trời cứ kêu”
(Khi con tu hú).
Tiếng chim tu hú kêu hay tiếng than vãn của con người. Đêm thì sợ kéo
dài lê thê, ngày thì sợ nắng chói trang bỏng rát như quất vào da thịt. Hoàn
cảnh thật trớ trêu, nó ngột ngạt u uất,“để
duyên cạn mùa”. Từ “duyên” đã lý
giải cho câu thơ. Không phải cuộc sống éo le vất vả, mà là một cuộc tình trái
ngang, chật chội. “Duyên cạn mùa” hay
tình yêu đã dần dần héo hon thui chột. Bát nước đầy lỡ đổ vớt lại không? Chưa
hết tác giả vẫn còn:
“ Sợ mưa bong
bóng cứ đùa
Sợ giông hờn gió cứ ùa vào tôi”.
Nói đến hình ảnh “mưa bong bóng”
người ta thường liên tưởng đến sự đổ vỡ chia ly, cách trở:
“Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy
chồng con ở với ai?”
(Ca dao).
Tình yêu mong manh, mơ hồ như những quả bong bóng giữa trời mưa, phồng
to lên rồi lại vỡ đi, cứ thế, cứ thế... Như giỡn đùa với số phận, nó cũng sẽ
tan như bong bóng xà phòng, tan như bong bóng trời mưa. Và chẳng bao giờ phồng
lên được, thế là hết. Điệp từ “sợ”
được lập lại tới bốn lần, tác giả đã khái quát được nỗi lo lắng trăn trở trước
cuộc đời. Lần cuối cùng tác giả “sợ giông
hờn gió” . Sợ sự vùi dập, sợ sự tàn phá, sợ cái gì sắp đổ vỡ, hoang tàn, cô
đơn, hiu hắt Bốn câu lục bát liên tục đối nhau: “Đêm” đối với “ngày”, “nắng” đối với “mưa”, “mưa” đối với “giông,
gió” càng làm tăng sự lo lắng, dằn vặt, như những đợt sóng cứ nối tiếp nhau
lớp lớp chồm lên nhấn chìm đi cái gọi là hạnh phúc. Đây cũng chính là thủ pháp
độc đáo sử dụng cách tiểu đối trong thơ của
Minh Hiền. những cái “sợ” của tác
giả, đã mô phỏng, chính là từ những cái “lệch” trong cuộc sống:
“Lệch mùa trăng sẻ làm đôi
Lệch anh em thả thơ
trôi cho bằng”.
Một sự so sánh thật thú vị mà lãng mạn, cái “lệch” của tình yêu đôi lứa lại ví như “lệch mùa trăng”. Ai cũng biết mùa trăng là mùa thu, trời trong
xanh leo lẻo, nên ánh trăng lại càng sáng như cụ Nguyễn Khuyến đã vịnh:
“
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
(Thu
vịnh)
Mùa trăng đẹp là
vậy. Mùa trăng cũng là mùa cưới, mùa xây tổ ấm của những đôi uyên ương. “Hoa cúc vàng bắt đầu mùa cưới đó / Nắng
hanh hanh cho má em ửng đỏ / Gió heo về mang hương vị tình yêu” (Chuyện chúng Mình của N.T), mà lệch mùa thì thật là buồn. nó tạo nên sự huyền ảo mơ hồ,
nhạt nhẽo. cái “lệch mùa” ấy Hàn Mặc
Tử cũng đã viết:
“Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của
mặt hồ”
(Huyền ảo)
Trăng trong thơ của Minh Hiền đã “lệch mùa” lại bị sẻ làm đôi
thì buồn quá. Có phải chăng đây
là sự đổ vỡ của những cuộc tình ngang trái. Vậy nên chị sợ “ đêm vẫn khoác đen” là đúng thôi . Khi đã lệch, ai cũng muốn kê cho
bằng. Sự tha thứ, lòng vị tha, tính nhân văn trong mỗi con người lại là điều
cần thiết. Nhưng tác giả lại gửi hồn mình vào thơ, chị chắp cánh cho thơ bay
trong gió, chị “ thả thơ trôi cho bằng” .
Tính hiện thực trong thơ của Minh Hiền
đã được lý giải, bởi không ít trong thực tế đã minh chứng. Những sân chơi đã ít
nhiều kéo lại sự thăng bằng trong cuộc sống.
Với bốn mươi hai từ Minh Hiền
ghép thành sáu câu lục bát, như đã giãi bày tình cảm, chia sẻ với độc giả bằng
cách nén câu, nén chữ, ngắn gọn mà đầy đủ, súc tích. Giàu hình ảnh, trìu tượng
mà cụ thể, ảo mà thật, dễ hiểu . Những thủ pháp tu từ, tiểu đối, so sánh, cách
dùng điệp từ biểu cảm. Chị đã như dựng lại những tình cảm, của những cuộc tình
có thật trong đời thường, như lời cảnh báo, răn đe. .Có thể nói rằng: Sáu câu
lục bát của chị, là sáu câu thơ tài hoa. Bởi nếu ta chỉ đọc riêng từng câu, một
mình nó cũng đã tỏa sáng, đủ nghĩa, và chuyển tải được đầy đủ nội dung của câu
thơ, như những lời triết lý (bốn cái “sợ”
hai cái “lệch”). Chúng tôi được biết
gần đây Minh Hiền viết rất sung sức và chắc tay. Chúc chị
khỏe mạnh, giàu cảm xúc để có những tác phẩm hay hơn.
Hà Nội 16 - 10 – 2014
TẤM LÒNG HIẾU THẢO CỦA MỘT NGƯỜI
CON qua bài thơ VIẾNG THĂM MỘ MẸ của nữ sĩ NGUYỄN
HƯƠNG LIÊN
VIẾNG THĂM MỘ MẸ
Chiều nay con về thăm mộ mẹ
Thắp nén hương thơm ngát không gian
Cỏ bao quanh khu mộ héo tàn
Đông buông rủ một mầu u ám.
Nỗi lòng con cũng buồn theo năm tháng
Con mất mẹ rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!
Khói hương thơm đã nói thay lời
Con nhớ mẹ muôn đời vẫn thế.
Con ước ao trong mơ gặp mẹ
Mẹ cười hiền âu yếm bên con
Chao ơi! Trong cõi linh thiêng
Ước gì có mẹ đến bên con ngồi.
Ngoài năm mươi tuổi đấy thôi
Vẫn còn thèm mẹ trên đời biết bao
Tình mẹ như những vì sao
Sáng trong trời đất soi vào tim con.
Mẹ nằm đây giữa quê hương
Nhưng hồn mẹ vẫn theo con dặm đường
Khói hương tỏa khoảng trời thiêng
Cúi đầu tạ mẹ lên đường con đi
Nguyễn Hương Liên
Lời bình
Cầm trên tay tập thơ TÌNH THƯƠNG VÀ NỖI NHỚ khi đọc đến bài “Viếng
thăm mộ mẹ” tôi thật sự bồi hồi xúc động trước tấm lòng hiếu thảo của
nữ sĩ Nguyễn Hương Liên. Là người
con, ai mà quên được công ơn sinh thành của cha mẹ, nhất là người mẹ đã chín
tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, dứt ruột sinh ra mình. Có nuôi con mới biết
lòng cha mẹ, mẹ là người luôn dành những tình cảm yêu thương nhất cho con, chỗ ráo nhường con, chỗ ướt mẹ nằm. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể. Hạnh phúc
lớn nhất của mỗi con người chưa chắc đã phải là địa vị, hay giàu sang phú quý,
mà chính là có mẹ và còn mẹ. Bởi mẹ là quê hương, mẹ là đất nước. Những ai
không còn mẹ, quả là thiệt thòi và là tổn thất lớn lao nhất. Nhà thơ Nguyễn
Đình Vinh đã viết:
“Một nén hương thơm nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất”.
(Bông hồng vàng)
Nhà thơ Nguyễn Hương Liên với tấm lòng hiếu thảo của mình trước lúc đi xa,
cũng như khi trở về quê hương, không bao giờ quên đến trước phần mộ mẹ mình
thắp những nén nhang thơm thảo kính dâng lên mẹ:
Chiều nay con về thăm mộ mẹ
Thắp nén hương thơm ngát không
gian
Cỏ bao quanh khu mộ héo tàn
Đông buông rủ một mầu u ám.
Nén
nhang của chị vặn xoắn thơm ngát không
gian, chị như cảm thấy linh hồn mẹ được mát mẻ, đang về che chở cho chị.
Chị xót xa thấy cỏ quanh khu mộ héo tàn,
hay chính lòng chị đang héo hon khi không còn mẹ. Câu thơ giản dị mà như cứa
vào lòng người đọc. Chị viết cho chị hay chị viết chung cho những người đang
chịu thiệt thòi như chị. Chị chia sẻ cùng mọi người, chị cảm thấy mùa đông buông rủ một mầu u ám. Khổ thơ đầu
chị viết theo thể vần liền, nhạc điệu trầm buồn man mác, khiến độc giả cũng
thấy buồn lây. Chỉ riêng câu kết của khổ đầu ta cũng đã thấy đầy màu sắc của
nghĩa địa ảm đạm, u ám làm sao. Quả như Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nỗi buồn của chị dài theo năm tháng, trước phần mộ mẹ mình
chị khóc, câu thơ như nấc lên, chị nghẹn lời đành nhờ khói nhang nói hộ:
“Nỗi lòng con cũng buồn theo năm tháng
Con mất mẹ rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!
Khói hương thơm đã nói thay lời
Con nhớ mẹ muôn đời vẫn thế”.
Một đời người có bao nhiêu
sự mất còn, ta đã mất gì, ta còn gì. Không nỗi đau nào bằng mất mẹ, mẹ ra đi là
mẹ mang đi cả lời ru ngọt ngào bên cánh
võng, nhưng tình thương vẫn da diết bên con. Những vẫn thơ chân chất mộc mạc,
không hoa mỹ, dễ hiểu mà như sói vào vào lòng độc giả, bởi ai sinh ra mà không
có cha có mẹ. Lời thơ của chị như tiếng khóc nấc lên, “con mất mẹ thật rồi, vĩnh viễn mẹ ơi!”. Các thi sĩ thường hay viết
ảo (ý tại ngôn ngoại) đánh bóng ngôn từ để cho câu chữ của mình “thật thơ, rất
thơ”, nhưng chắc gì đã hay hơn những ngôn ngữ đời thường mà gây được cảm súc
cho người đọc. chính Nguyễn Hương Liên
lại làm được điều này, chị khóc bằng thơ, những câu thơ giản dị làm người đọc
cũng hoen mi. Nhà thơ Hoàng Cửu Long cũng đã khóc mẹ như thế:
“Mẹ yêu ơi! Đã xa rồi trần thế
Cõi hồng trần lòng con lạnh tái tê
Trong cơn mê mẹ âu yếm vỗ về
Vẫn nụ cười sưởi lòng con ấm áp”
(Nhớ
mẹ Lý mồ côi)
Tấm
lòng hiếu thảo của tác giả thật đáng trân trọng và khâm phục. Mỗi khi đi xa về
gần chị không quên tới viếng thăm mộ mẹ. Chị như muốn níu kéo một điều gì,
dường như mẹ với chị là tất cả, mất mẹ là mất tất cả Qua thơ của chị ta mới
thấy hết được tình cảm sâu nặng của chị:
“Mẹ nằm đây giữa quê
hương
Nhưng hồn mẹ vẫn theo con dặm
đường
Khói hương tỏa khoảng trời thiêng
Cúi đầu tạ mẹ lên đường con đi”.
Nữ
sĩ chào mẹ khi lên đường, nén nhang thơm cầu cho mẹ mồ yên mả đẹp, nhưng vẫn
thầm mong linh hồn mẹ theo con trên mọi nẻo đường, chở che cho con, dẫn dắt con
đi bằng những vần thơ lưu luyến đằm thám thiết tha
Ngoài năm mươi tuổi, đã
là mẹ, đã bà mà tác giả vẫn thèm mẹ
như đứa trẻ thơ:
“Ngoài năm mươi tuổi đấy thôi
Vẫn còn thèm mẹ trên
đời biết bao
Tình mẹ như những vì sao
Sáng trong trời đất soi vào tim
con”.
Vẫn
lối viết tự sự mà không rơi vào cái khuyết tật kể lể, tác giả chia sẻ nỗi lòng
mình, như con trẻ chị vẫn thèm mẹ trên
đời biết bao. Ở đây ta bắt gặp từ “thèm”
mới thật thú vị, nó gợi lên cái tình cảm ngọt ngào ấm áp của tình mẫu tử, “Con yêu mẹ con xà vào lòng mẹ / Để suốt đời
con được chở che” (Lê Nghiêm). Với mẹ bao giờ con cũng bé bỏng,
cũng còn trẻ thơ. Mẹ là tất cả, như những
vì sao / Sáng trong trời đất soi vào tim con.
Bài
thơ được tác giả cắt làm 5 khổ, Nguyễn
Hương Liên viết theo chiều mặt phẳng, chị nghĩ gì viết lấy theo mạch cảm
xúc của mình, mà vẫn gợi cảm. Đây là cách viết rất khó, bởi dễ viết nhưng rất
khó hay, nhưng chị đã thổi hồn mình vào thơ, gây được cảm xúc cho người đọc,
đây chính thành công của người cầm bút. Bài thơ bố cục chặt chẽ nhưng chưa được
mạch lạc, nếu như khổ thứ 4 mà chị đẩy xuống làm khổ kết thì mới logic, và ăn
nhập với chủ đề, vì đây là bài thơ tự sự kể lại tình cảm của mình từ lúc trẻ
cho đến lúc đã ngoài năm mươi tuổi. Chúc chị thành đạt trong sự nghiệp văn
chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét