Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2023

 

  VIẾT CHO THU

Thơ & lời bình

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

NGHIÊM THẢN

 

 

 

 

 

VIẾT CHO THU

(Thơ & lời bình)

 

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

HÀ NỘI 2022

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN 1

thơ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MÊNH MANG SUỐI MỠ

 

Anh đi trong mênh mang suối Mỡ

Núi rừng trùng điệp mà ngỡ trong mơ

Cánh bướm dập dờn gợi thương gợi nhớ

Thác Thùm Thùm, chậm đến để em chờ.

 

Ngày mở hội ba đền Trung, Hạ, Thượng

Ta lại tìm về, đi lễ cầu may

Tay trong tay dập dìu nghe suối chảy

Bắc Giang ơi! Sao quên được nơi này.

 

Món “chính cầy” chưa bao giờ là giả

Tỏa mùi hương ẩm thực núi rừng

Chỉ một lần không bao giờ quên được

Nói gì đi. Sao em cứ ngập ngừng.

 

Đừng vội về cho anh ghi lưu niệm

Muốn cùng em tắm nước suối đầu nguồn

Đất Nghĩa Phương như níu lòng du khách

Trời vô tình bất chợt đổ mưa tuôn.

 

                                            Bắc Giang 2015

 

 

 

 

 

 

 

MỘT TRANG NHẬT KÝ

 

Thật lòng anh rất yêu em

Nhưng vẫn sợ như mình mắc tội

Vẫn biết tình yêu không có lỗi

Sợ chẳng bao giờ đến được với nhau.

 

Vẫn biết mạng đang thông suốt hai đầu

Gọi cho nhau mà như người vụng trộm

Nhắn tin ư? Sợ em quên không xóa

Đành lặng câm - mình là kẻ thứ ba.

 

Anh rất yêu nhưng chẳng dám nói ra

Bởi anh nghĩ có cái gì chưa ổn

Em thương tổn, lòng xáo xáo trộn

Chỉ muốn ôm em chia sẻ vơi đầy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Em đừng hỏi, anh như mắc bùa vây

Hoa Tigon vỡ tung ra thành ba mảnh

Phải ruộng đâu mà chia bờ, chia khoảnh

Thương em nhiều sợ em mãi cô đơn.

 

Anh vẫn lo em giận em hờn

Đành cứ thế… không thể nào nói được

Vẫn biết mình có bao điều ước

Trước tình yêu sao khổ thế em ơi!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VÀO CHÙA

(Tặng Thanh Xuân)

 

      Nhìn em niệm Phật di đà

Mắt đăm đăm dõi Phật bà quán âm

      Lòng thành em đã có tâm

Nét duyên còn mãi, xanh mầm chồi Xuân.

 

 

TÌM NHAU

 

      Nửa đời ta mãi tìm nhau

Nửa đời chia sẻ nỗi đau nửa đời

      Em như chim lạc chơi vơi

Anh như ngọn gió lưng trời tìm em.

 

EM ƠI ANH ĐỢI

(Tặng Nữ sĩ Hồ Tịnh Văn)

 

Dù phải mượn kiếp sau anh vẫn đợi

Ánh mắt buồn làm xiêu ngả lòng anh

Nụ hôn dài và bao nhiêu điều ước

Chỉ tiếc hai ta mộng không thành.

 

Áo dài em rực lên màu Hoàng hậu

Gợi lại trong anh kỷ niệm ban đầu

Tình mình như Ngưu Lang Chức Nữ

Tìm đâu ra chim Ô Thước bắc cầu!

 

Thương em nhiều, mà sông Ngân rộng quá

Ngược tháng năm tìm đến tuổi học trò

Áo trắng tinh khôi, bao điều tiếc nuối

Số phận đẩy đưa anh nào chút đắn đo.

 

Núi Hồng Lĩnh vẫn tươi mầu hoa cỏ

Sao em không về tìm lại kỷ niệm xưa?

Mừng cho em nhiều điều thành đạt

Anh yêu em, mà như kẻ lọc lừa.

 

 

 

 

 

 

 

ĐIỀU ANH THÍCH

 

 Anh thích nhìn mặt em khi xấu nhất

Để sau đấy là những nụ cười duyên

Mình đã đi qua mọi miền xao xuyến

Để có cơ duyên neo bến đậu thuyền.

 

Anh muốn ngắm em khi vừa ngủ dậy

Nét đẹp trắng trong, chân chất đậm đà

Không lụa là, không màu son phấn

Em vẫn là em trong ngàn vạn bông hoa.

 

Quà cho anh là nụ hôn dài âu yếm

Vòng tay mình ghì chặt lấy thời gian

Tan vào nhau qua từng hơi thở

Để những vần thơ cứ mãi dâng tràn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh thích đọc những vần thơ mộc mạc

Không mỹ từ, không bóng bẩy xa hoa

Được viết ra từ ruột gan máu thịt

Đi vào lòng người như chính bản thân ta.

 

Điều anh thích là những điều chân chất

Vẫn sợ mất đi cái gốc ban đầu

Xã hội văn minh muôn màu muôn sắc

Giữ được niềm tin, hạnh phúc sẽ lâu bền .

 

 

 

 

 

 

 

CHUYỆN KHÔNG NGỜ

 

Anh đến đón em như đã hứa

Không ngờ trời lại đổ cơn mưa

Điện thoại hai đầu dây tắc nghẽn

Chỉ thấy tin nhắn lúc nửa đêm.

 

Anh thất vọng quay đầu xe lầm lũi

Mặc cho trời xối xả mưa tuôn

Mặc cho gió lật tung mũ áo

Chỉ thấy bao nhiêu những nỗi buồn.

 

Ngấm nước mưa hay lòng người ngấm lạnh

Đang chạnh lòng, điện thoại đổ chuông reo

Anh mới biết được, em tăng huyết áp

Thật trớ trêu cho tình cảnh ngặt nghèo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thế là em lại phải vào nằm viện

Cơn sốt lòng - anh như một người điên

Bao dự định bây giờ tiêu tan cả

Lo cho em lòng dạ chẳng được yên.

 

Đành chấp nhận, em cũng đâu muốn thế

Giờ chỉ mong cho cơn bệnh mau lành

Chẳng ai muốn cuộc đời dâu bể

Không tệ lắm - hiểm nghèo đã qua nhanh.

 

Đừng nghĩ nhiều đã có anh bên cạnh

Ngoài kia trời vẫn rất trong xanh

Hãy an tâm chữa cho mau lành bệnh

Em có nghe tiếng chim hót trên cành.

 

 

 

CỐ QUÊN

 

Tôi cố quên nhưng không sao quên được

Bởi những giọt tình đã lọt vào tim

Gần như chung vách, mà ngàn trùng xa cách

Đêm lang thang trong phố cổ im lìm…

 

Tôi tìm cái bồng bềnh hư ảo

Lẩn vào mây, Tam Đảo ấp tay nhau

Kể nhau nghe những vết đau thành sẹo

Ơi! Tình yêu, sao lắm sắc nhiệm màu.

 

Tự do yêu mà sao vẫn sợ

Vẫn cầu thần linh, yêu trọn kiếp trọn đời

Đừng bao giờ hai đứa mình dang dở

Mấy ai đã đi, đến đỉnh của tuyệt vời.

 

Nói cố quên sao còn tìm ký ức

Những kỷ niệm xưa, đâu dễ phai mờ

Nhắm mắt ngủ, sao vẫn còn thao thức

Tôi cố quên, ai đó vẫn trong mơ.

 

 

 

 

 

 

 

ĐỜI THƠM

 

      Đàn bà nông nổi giận hờn

Đàn ông xảo quyệt chập chờn bóng ma

      Thích hoa thơm, giả mặn mà

Muôn đời vẫn thế người ta thường tình.

 

      Khen cho hương sắc hoa quỳnh

Nở đêm để lánh rập rình bướm ong

      Nước trong nên giữ cho trong

Đáy lòng còn có cặn lòng nhớp nhơ.

 

      Gái ngoan biết giữ bến bờ

Chim khôn chẳng đậu vật vờ cành cao

      Sắc phai nhạt - vẫn hoa đào

Đời thơm - phụ nữ ngọt ngào chồng con.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỜI TRẦU

 

      Lưng xanh yếm thắm là đây
Tình yêu quan họ đong đầy khát khao
      Khẩu trầu cánh phượng mời chào
Không ăn không lỡ, ăn vào đắng môi!


RÉT NÀNG BÂN

 

      Tưởng rằng trời tãi ánh vàng
Nắng còn non lắm lại quàng sợi mưa
      Nàng Bân đan áo xong chưa?
Đêm mà trở gió, rét thừa tháng Ba.

 

 

 

 

 

 

 

TÌNH YÊU QUAN HỌ

 

      Yêu như công chúa Mỵ Châu

Đẹp thì rất đẹp nỗi sầu can qua!

      Liền anh liền chị đâu xa

Dứt tình đôi lứa để mà giao duyên.

 

      Bồng bềnh quan họ dưới thuyền

Dùng dằng, rưng rức những miền yêu thương

      Ra về còn lắm vấn vương

Lời thề đã hứa đến sương mái đầu.

 

      Lơ thơ vẫn nước sông Cầu

Quan họ đứt ruột từng câu ru tình

      Hai mình mà vẫn một mình

Liền anh liền chị - cây quỳnh cành giao

 

 

ANH SẼ VỀ

 

Mùa covid làm người đang yêu sốt ruột

Nhớ lắm! Bờ Hồ mỗi lúc anh qua

Phố bích hoạ Phùng Hưng đường như ngắn lại

Chẳng muốn về khi nhìn chị bán hoa.

 

Đường Quán Thánh quán cà phê quen thuộc

Nay có im lìm cửa đóng cài then?

Và trái mùa nên không tìm đâu hương hoa sữa

Chiều đi bộ mình chẳng được dắt tay nhau.

 

Đường Thanh Niên lại gần khu Trúc Bạch

Chẳng được hôn em lúc tóc xoã nghiêng đầu

Con covid làm hai ta cách biệt

Giờ cách ly như chia cách chúng mình.

 

Hãy chờ anh chờ khi tan dịch

Anh lại về ôn lại kỷ niệm xưa

Hãy chờ anh em ơi! Khi hoàn thành nhiệm vụ

Anh sẽ về hai đứa lại bên nhau.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÓC EM

 

      Vừa đen vừa mượt như tơ

Điểm vài sợi bạc, khép hờ tuổi Xuân

      Bới tìm nhổ những gian truân

Giúp em trẻ lại, bớt phần phôi phai

 

 

XEM ẢNH

 

      Ngắm em từ trước tới sau

Kiêu sa, quyến rũ, một màu nõn non

      Ước gì tới được Sài Gòn

Một lần gặp mặt, vuông tròn tùy em.

 

 

 

 

 

VÔ ĐỀ

 

      Đời em như thể thân cau

Mo già tách bẹ, nõn màu cau non

      Xa nhau nhớ đến mỏi mòn

Mình yêu màu tím là còn yêu nhau

 

 

ĐỢI

 

Đêm nghe con cuốc cuốc kêu khan

Lẫn tiếng đàn bầu khúc nhặt khoan

Đây chốn quê người bao vất vả

Ở nhà đất mẹ bấy gian nan

Thương thương nhớ nhớ mòn con mắt

Đợi đợi chờ chờ lệ chứa chan

Anh cố níu thời gian lùi ngắn lại

Hai ta hạnh phúc lại dâng tràn.

 

 

DƯỚI SÂN TRƯỜNG

 

Với em anh không hề thêu dệt

Em đẹp mỹ miều, hoa cũng muốn ghen

Khi còn trẻ anh vẫn hằng mơ ước

Có được bông hoa, nép dưới bóng anh.

 

Em có nhớ không, trên đồi sim tím

Em lấy lá, anh chặt nứa làm lều

Anh là học trò, em làm cô giáo

Cả một buổi chiều, em chỉ giảng chữ yêu.

 

Anh ôm ấp bóng hình em từ ấy

Dưới sân trường, em mặc áo vàng tươi

Em đứng đó như chờ như đợi

Đăm đắm nhìn về phía xa xăm.

 

Thơ em viết gửi miền thương nhớ

Những buồn vui, lúc tuổi còn thơ…

Và ngay cả bây giờ cũng vậy

Tình yêu ngập tràn, đầy những ước mơ.

 

 

 

 

 

 

 

BỜ MÃI SONG ĐÔI

 

Gió đã heo may, nhưng chưa là muộn

Có cuộc tình nào định trước được đâu

Sông càng sâu, lại càng trong nước

Trước tình yêu, sao khó nói nên câu.

 

Chim muốn bay cao, sao mây cản lối?

Cá muốn lặn sâu, nước đục vô tình!

Đây vách núi cao, kia là dòng xoáy

Em giữ trắng trong như đóa hoa quỳnh.

 

Trời đã bình minh sao còn bối rối

Chỉ sợ hai người chẳng chịu hiểu nhau

Trầu mà nhạt vôi, má hường kém đỏ

Nhặt câu thơ rơi, xin ghép lại thành cầu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đàn bầu ai gảy, lúc khoan lúc nhặt?

Cánh cửa nhà bên sao cứ khép hờ?

Chăn gối lệch xô, bao điều trăn trở

Bù đắp cho nhau vẫn chỉ là mơ!

 

Dòng nước vẫn sợ đôi bờ hiện hữu

Bên lở chẳng đau, khi bên ấy được bồi

Lúc êm ả, khi trào dâng sóng cuộn

Cầu đã bắc qua, mà bờ mãi song đôi

 

 

 

 

 

 

 

ANH CHƯA THỂ VỀ

 

      Anh chưa về được em ơi!

Cách ly covid là nơi dân cần

      Cũng là trách nhiệm quân nhân

Cũng là vì nước vì dân anh làm.

 

      Cũng là hồn của nước Nam

Gian nguy đến mấy cũng cam đồng lòng

      Nước đục thì gạn cho trong

Anh đây cũng nhớ cũng mong được về.

 

      Để cùng thả gót triền đê

Để cùng hát khúc tình quê ngọt ngào

      Để cùng mơ mộng đếm sao

Để còn toan tính ngày nào đính hôn.

 

 

NHỚ MÀU ÁO ẤY

 

Khi con tàu rời khỏi sân ga

Chở đi bao nhiêu bàn tay vẫy

Miền xao xuyến trong tim thức dậy

Những bùi ngùi, lưu luyến lúc chia tay.

 

Chiếc lá bàng bay theo gió chiều nay

Màu tím đỏ chìm dần vào nỗi nhớ

Duyên hay nợ? Nợ duyên, duyên nợ…

Chợ đã chiều, mà vẫn muốn người đông.

 

 Hoa cải đang mùa em có nhớ không?

Trang thơ viết một bóng hồng thơ dại

Em cứ đi, đi em không ngoảnh lại?

Anh vẫn thương cây cải sớm trổ ngồng.

 

Bình dẫu đẹp, bỏ không buồn lắm!

Anh vẽ lên tường hoa trổ đôi bông

Và thấy nhụy tỏa hương thơm mát

Hoa tím đỏ, như màu áo ấy anh yêu.

 

 

TỰ HỎI

 

Sao mình vội trách người ta vô cớ?

Đi đâu xa chẳng nhớ tới anh

Sáng trăng suông luôn là nhạt nhẽo

Thấy trái thơm sao cứ muốn vin cành?

 

Sao mình không vui, khi người ta hạnh phúc?

Bên chồng con và những người thân

Lâu lắm rồi nay mới về họp mặt

Chấp nhặt vu vơ, trách con tạo xoay vần.

 

Điện thoại cầm tay sao không bấm máy?

Nhớ cháy ruột gan, sao chẳng chịu nhắn tin

Mình là gì đâu! Lại chờ người ta gọi

Biết dằn lòng như thế vẫn là hơn.

 

Sao không tự hỏi lòng: Mình là ai nhỉ?

Chưa đủ tài sao muốn vượt Vũ Môn

Chôn một mối tình không bao giờ dễ

Điệp Lan ơi! Sao lòng dạ bồn chồn?

 

 

ĐẾN VỚI TÌNH YÊU

 

Sao đến với tình yêu lúc nào anh cũng vội?

Cả khi đi đường, và mỗi bữa anh ăn

Hay anh thương em một mình ngồi ngủ

Lạnh bờ vai dù thừa gối, thừa chăn.

 

Anh nói yêu em ngàn lần như chưa nói

Gói lại tình yêu khi gặp gỡ mang về

Để ấp ủ, để thương, để nhớ

Nơi bình yên, thơ anh viết không đề.

 

Anh đừng nói nữa những lời âu yếm

Chỉ làm khổ nhau bởi sợ sóng ngầm

Dứt bỏ được đâu dù cau già trầu úa

Em yêu anh nhiều, mà vẫn lặng câm.

 

Anh đừng vội thế, dù em chờ em đợi

Rất nóng lòng nghe điệp khúc tình ca

Để sưởi ấm trái tim hồng se lạnh

Em vẫn chờ anh kể chuyện những ngày qua.

 

 

TƯƠNG TƯ

 

      Xuân về Tết đến mọi nhà

Người ta đi với người ta lễ chùa

      Yêu nhau mà cứ như đùa

Xa nhau nhung nhớ như thua thất tình.

 

      Vẫn thơm như thể hoa quỳnh

Vẫn trong trắng ngọc, vẫn bình pha lê

      Vẫn chân chất gốc nhà quê

Sao tâm vẫn cứ mẩn mê phải lòng.

 

      Xin ai gỡ mối bòng bong

Cho hoa khoe nhụy cho ong lại gần

      Có duyên mà chẳng có phần

Đò rời xa bến chậm chân mất rồi.

 

      Người ta đi lễ có đôi

Nhâm nhi chén đắng vẫn tôi một mình.

 

                                    Mùng 2 Tết Ất Mùi.

 

 

UỐNG NỮA ĐI

 

      Thế là héo lá diêu bông

Chúc ai hạnh phúc bên chồng bên con

      Chỉ thương lối cũ đã mòn

Chỉ thương bờ dậu không còn nở hoa.

 

      Người ta còn nhớ người ta

Người ta hẫng hụt, vào ra đứng ngồi

      Mừng ai đũa đã có đôi

Thương ai lăn lóc bình vôi xó nhà.

 

      Mong cho màu tím hoa cà

Cứ tươi cứ thẫm mặn mà thủy chung

      Gió hoang rú rít đùng đùng

Luồn qua khe liếp lạnh lùng cô đơn.

 

      Mưa dầm lối cũ đường trơn

Còn đâu, đâu nữa dập dờn bướm bay

      Uống đi cho hết cơn say

Cuộc đời là những trả vay khóc cười.

THẤT NGHIỆP

 

      Con ơi! Nhớ lấy điều này

Sống không tích lũy có ngày chết oan

      Làm mà chẳng chịu lo toan

Đến khi thất vận lại bàn đi vay.

 

      Bây giờ thất nghiệp trắng tay

Cách ly, giãn cách cả ngày lẫn đêm

      Cộng dồn ca mắc tăng thêm

Nhiều người hết gạo đói mềm bụng ra.

 

      Biết bao giờ dịch tan qua

Để đi làm việc để mà sinh nhai

      Bây giờ kể cả người tài

Cũng ngồi một chỗ một hai đợi chờ.

 

      Đâu ngờ rồi lại đâu ngờ!

Tiền khô cháy túi bây giờ trách ai!

      Cách ly chẳng được ra ngoài

Miệng ăn núi lở tính hoài chi con!

 

                                                   8.2021.

 

LỤY

 

      “Qua sông thì phải lụy đò”

Vì yêu nên lụy… bởi lo một mình

      Vào hang Cắc Cớ lạy trình

Cầu thần linh độ cho mình yêu nhau.

 

      Không có rượu, chẳng có cau

Tình yêu hơn cả Thị Màu đòi yêu

      Không như Kim Trọng Thúy Kiều

Liều yêu nên phải nhiều điều lụy nhau.

 

 

THƯƠNG EM

 

      Trắng trong tinh khiết hoa quỳnh
Mất em từ độ chúng mình lạc nhau

      Bây giờ thu đượm sương đầu

Mà sao em vẫn một màu nõn xanh.

 

      Giá như chung lối cùng anh

Chẳng bao giờ lạc, để thành chia hai!

 

 

 

 

 

 

 

VIẾT NGÀY 23 TẾT

 

      Hoa nào rồi cũng tàn phai
Cái thời Xuân sắc có dài mãi đâu!
      Nõn non, non nõn thắm màu
Mọc bên bờ giậu cho ngâu nó vày.

 

      Cuộc đời vay trả, trả vay
Hay đâu kiếp trước, kiếp này đa đoan?
      Tiếc thời tuổi vẫn còn xoan
Sa đâu ấm đấy, gái ngoan cũng đành.

 

      Chẳng Sở Khanh, cũng vin cành
Không Thúc Sinh, cũng hóa thành người dưng
      Hoa thơm dập nát nửa chừng
Ngậm bồ hòn đắng, vẫn rưng rưng cười.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Trước nhà vẫn sắc hoa tươi
Một đời hoa - một đời người buồn tênh
      Ai làm ngọn sóng cong vênh
Để con thuyền nhỏ bồng bềnh biển khơi.

 

      Hai Ba Tết khấn đất Trời
Ông Công, ông Táo tới nơi Thiên đình
      Xin ngài kể hết sự tình
Trời thương, Trời để cho mình được yêu.

 

                                    Ngày 23 Tết Đinh Dậu

 

 

 

 

 

 

 

MỖI NGƯỜI

CÓ NỖI BUỒN RIỀNG

 

      Anh buồn chẳng kém em đâu

Tìm ai chia sẻ ruột dầu như dưa

      Trời đang nắng, bỗng đổ mưa

Cả đời gánh chụi, có chừa tôi đâu!

 

      Ra đường tươi sắc nhuận màu

Về nhà toàn thấy những câu nói thừa

      Người tham biết mấy cho vừa

Đầy ninh ních túi vẫn chưa vừa lòng.

 

      Rối như canh hẹ, bòng bong

Vẫn tìm cách gỡ cho xong mọi bề

      Hở môi răng lạnh người chê

Vẫn đành cam chịu giữ nề cho con.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Em buồn lỡ bước tuổi son

Người buồn đứt gánh mỏi mòn khôn nguôi

      Mái chẳng thuận, nước chẳng xuôi

Anh buồn dao sắc mà chuôi người cầm.

 

      Hoa sen thơm bởi bùn đầm

Sao cú cứ thích hồng ngâm để vày

      Có ai hiểu được buồn này

Mỗi người một nỗi, níu ngày sang đêm.

 

 

 

ĐIỀU ANH ƯỚC

 

Anh muốn là chiếc gối ôm

Cho em bình yên giấc ngủ

Anh sợ mưa rừng bão lũ

Lạc em rồi… sẽ mất em.

 

Mở bộ sưu tập ra xem

Biết tìm đâu người tri kỷ

Đây vẫn chiếc giường cũ kỹ

Đêm tan dần…tan dần… đêm.

 

Người ta chăn ấm nệm êm

Thương em một mình vò võ

Đêm càng sâu, trăng càng tỏ

Tiếng côn trùng rả rích rên.

 

Nỗi đau em mãi chẳng quên

Là họa sĩ anh sẽ vẽ

Đôi chim câu không đơn lẻ

Chiếc gối hồng, để em ôm.

 

 

NHỚ

 

Nhiều đất người thưa với núi sông

Chim bay mỏi cánh rộng mênh mông

Ở đây Phố Núi anh buồn lắm!

Nơi ấy Hà Thành em nhớ không?

Chẳng biết bao giờ được gặp lại

Chỉ thấy trong mơ có bóng hồng

Suốt ngày nương rãy ngô khoai sắn

Vẫn ước em vui vẻ với chồng.

 

 

GẶP LẠI NHAU

 

Lành lạnh đêm Thu dưới tán cây

Bao nhiêu tâm sự muốn phơi bầy

Mười năm biền biệt bao khao khát
Một phút gần nhau đong khó đày
Đâu phải trái tim là gỗ đá
Chi bằng lòng dạ gửi trăng mây

Một ngày cũng nên tình nên nghĩa

Cho thỏa những ngày khắp đó đây.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐẮNG

 

      Bài thơ em chẳng đặt tên

Những thương những nhớ khó quên nhau rồi

      Ý thơ viết, đúng quá thôi

Cùng chung một vách bồi hồi nhớ nhau,

 

      Đâu phải thẳng mới là cau

Đường cong tuyệt mỹ - sắc màu dễ yêu

      Gặp em khi sớm khi chiều

Đêm về lại nhớ mơ nhiều về em.

 

      Gió lùa lạnh buốt như kem

Li cà phê nóng, sau rèm đắng nhau.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BUỒN MÙA COVID

 

Cách ly Covid có buồn không?

Ra ngóng vào trông nhớ bóng hồng

Thơ viết xong rồi không bạn đọc

Văn hay chữ tốt chẳng ai trông

Áo khăn vừa sắm không buồn mặc

Quần ngắn cũ rồi chả bỏ không

Biết đến bao giờ tan dịch dã

Cùng nhau hội tụ chúc men nồng.

 

                                 Tháng 4.2020

 

 

 

 

 

GIẢI MÃ TÌNH YÊU

 

Ta đến với nhau

từ những gì đồng điệu

Ta sẵn bằng lòng vì có tri thức tình yêu.

 

Đến với nhau từ những gì hấp dẫn

Kính trọng nhau thấy trí tuệ hơn người

Rất ngưỡng mộ khi tâm hồn rộng mở

Thể xác ư? Đã hấp dẫn

ai không ham muốn khát thèm

Tất cả... tất cả để có được tình yêu.

 

Đến với nhau

một ngày cũng nên nghĩa

Dứt bỏ không đành, vẫn ngại đa đoan

Nỗi niềm đầy trăn trở...

Có những điều cố giấu làm ngơ!

Mối tình đẹp là tình tri kỷ

Xin được ghép vần để giải mã tình yêu.

 

 

 

 

 

 

THỊ TRẤN ĐÔI

 

      Một người đi với một người

Hai người dung dẻ dạo chơi ngắm hàng

      Một người tặng đóa hồng vàng

Một người đón nhận nhẹ nhàng nâng niu.

 

      Mơn man gió mát hiu hiu

Đôi chim câu trắng dập dìu tầng không

      Đất trời Tam Đảo mênh mông

Chợt mưa chợt nắng cầu vồng hoá đôi.

 

      Trong phòng chỉ một riêng tôi

Cô đơn không sợ mồ côi một mình

      Ngoài kia sương khói rập rình

Tôi cùng cái bóng vô tình thành đôi.

 

 

 

 

 

 

CHO ANH CHIA SẺ

 

Cuộc đời em sao gặp nhiều tổn thất

Cứ mất đi bao thứ em cần

Tình cha mẹ là bờ vai lớn nhất

Đã không còn từ lúc chập chững bước chân.

 

Tài sản chồng chiếc ba lô đầy trăng gió

Ai biết đâu lúc vò võ đêm trường

Chưa đổ vỡ mà tinh thần sụp đổ

Gia đình là một mái ấm tình thương.

 

Em cam chịu mất những gì em mất

Để giữ lại những cái có cần hơn

Nhưng đời đâu cho em suôn sẻ

Giằng xé em - giông bão nổi từng cơn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đã cạn thu rồi sao còn nhiều lá rụng

Mất một đứa con như chiếc lá lìa cành

Những tổn thất lại chồng lên tổn thất

Cơm dẻo đấy mà sao chẳng ngọt canh.

 

Sự mất còn như một điều vô lý

Quỷ dữ không bắt đi những kẻ bất tài

Người nhân đức lại coi là xấu số

Tổn thất này sao mãi chẳng nguôi ngoai.

 

Cho anh chia sẻ để mùa thu chín lựng

Hãy chăm sóc cho cây nhỏ thêm xanh

Tấm lòng anh chỉ những lời tri kỷ

Cái lạnh qua đi, hoa trái lại trĩu cành.

 

 

 

 

 

 

 

NGÀY CÁ THÁNG TƯ

 

Sao em còn lưu luyến mãi tháng ba

Hay vẫn tiếc rét nàng Bân se lạnh

Hoa xoan tím đã thôi hạ cánh

Hoa gạo nghén thai đang đợi rắc tơ trời.

 

Hương bưởi đâu rồi để nỗi nhớ chơi vơi

Tinh khiết loa kèn - hoa trắng trong rực rỡ

Sao tình yêu cứ như người mắc nợ

Mồng một tháng tư, anh chẳng nói dối bao giờ.

 

Trăng huyền ảo như thực như mơ

Đom đóm dong chơi lập lòe thắp lửa

Lúa ấp đòng đòng đang mùa dạ chửa

Đợi sấm về, hẹn mùa gặt bội thu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bụi tre cựa mình kẽo kẹt gió ru

Anh lại nhớ giọng ầu ơ của mẹ

Chùm hoa lựu đung đưa nhè nhẹ

Con cuốc cuốc kêu, da diết gọi hè.

 

Lanh lảnh tiếng chim - giọng hót chích chòe

Cây sấu già đang vào mùa thay áo

Nắng mới bừng lên, trẻ nô đùa bên xóm đạo

Ngày cá tháng tư muốn nói dối không thành.

 

 

 

 

 

BÊN BỜ NAM NGẠN

 

Đất Nam Ngạn một thời anh gắn bó

Ao thả cá từ những hố bom thù

Cầu Hàm Rồng vẫn hiên ngang sừng sững

Núi Ngọc thân thương cây mọc đã nên rừng.

 

Nơi em đứng hoa bằng lăng rực rỡ

Ngày chống Mỹ mù mịt những khói bom

Đường sắt bật lên vặn quăn như vỏ đỗ

Nay đã thành xứ sở của tình yêu.

 

Em cười tươi như hoa nở trên môi

Anh lại nhớ o dân quân vui rạng rỡ

Khi máy bay rơi làm núi đồi sạt lở

Nam Ngạn ơi! Đây mảnh đất kiên cường.

 

                                 Nam Ngạn Hàm Rồng                           

                                                  28.5.2017

ĐỢI NGÀY TAN DỊCH

 

Đêm nghe con cuốc cuốc kêu khan

Lẫn tiếng đàn bầu khúc nhặt khoan

Đây chốn quê người bao vất vả

Ở nhà đất mẹ bấy gian nan

Thương thương nhớ nhớ mòn con mắt

Đợi đợi chờ chờ lệ chứa chan

Mình cố mong cho nhanh hết dịch

Hai ta hạnh phúc lại dâng tràn.

 

                                            28.8.2021

 

GẶP EM

 

Áo em trắng mỏng mắt anh mờ

Từ ấy anh về cứ mộng mơ

Tuổi ngoại sáu mươi hồn vẫn trẻ

Xuân xanh mơn mởn đáng tôn thờ

Tiếc mình thai nghén nhầm năm tháng

Lưu luyến ấp iu cũng phải ngơ

Gặp em cứ ngỡ như trong mộng

Kiêu sa kiều diễm đến không ngờ.

 

 

 

 

 

 

 

KHOẢNG CÁCH

 

Khoảng cách vũ trụ là hằng hà sa số
Gần hơn nữa là hậu duệ của các hành tinh
Cả thế giới gần nhau mà xa lắm
Tính bằng dặm đường lại rất gần nhau.

 

Càng thấy đau, lại càng xa cách
Một vách ngăn còn xa cách ngàn trùng
Cùng lý tưởng là gần nhau hơn cả

Muốn gần nhau cần tìm những điểm chung.

 

Với cha mẹ tưởng chừng như gần gũi
nhưng vẫn cần một khoảng cách riêng
Hoa muốn nở, người trồng không cho nở
sao giữ được hương thơm khi ép đợi đúng ngày.

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh em ruột không có gì là khóhiểu
nhưng vẫn quên nước lã với máu đào
bởi bản năng luôn tính điều hơn thiệt
Lúc sóng to mới thấy biển ồn ào.

 

Với tình yêu lại càng cần khoảng cách
Hai tâm hồn dù hòa quyện vào nhau
Có nỗi buồn nào bằng chia tay đôi ngả
bởi hai người chưa giữ được khoảng cách

cho nhau…

 

Biết kính trọng nhau, đó chính là khoảng cách
Vật thể, hay con người đều có cái riêng
là hoa lá cỏ cây, còn muôn màu muôn sắc
khoảng cách ngắn dần, là rất dễ xa nhau.

 

 

.

 

 

 

 

XUÂN CHIỀU

 

Đi nửa cuộc đời tôi chửa biết yêu

Nếu được yêu, tôi sẽ viết thơ tình để tặng

Xuân xốn xang mà lòng tôi yên lặng

Vẳng vẳng đâu đây khúc nhạc trầm buồn.

 

Bay thấp bay cao, mỏng mảnh cánh chuồn

Mười hai bến nước biết bến nào neo đậu

Thân dây leo đành tìm nơi bờ dậu

Vẫn hy vọng rằng bám được cây cao.

 

Ngoài kia xuân chạm lá lao xao

Cái rất riêng chỉ một mình anh nhớ

Có phải yêu lần đầu hay lỡ dở?

Tôi tự hỏi mình, hình như đã biết yêu.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trời se lạnh ngắm cảnh xuân chiều

Muốn chấp bút viết vần thơ tặng bạn

Chọn ngôn từ chứa chan tình lãng mạn

Không được rồi! Mình là kẻ đến sau.

 

Sao tình yêu đầy những nỗi đau

Vẫn chạm mặt nhau mà cách xa vời vợi

Mong có kiếp sau để tôi chờ tôi đợi

Giờ xin tặng em những mảnh thơ tình!

 

 

ĐẤT NƯỚC MÌNH THỜI COVID

 

Đất nước mình chưa bao giờ khổ thế này!

Không chiến tranh mà người tử vong hàng loạt

Người thân mất đi không người tiễn biệt

Có nghèo đâu mà sao phải tiêu dè xẻn từng đồng!

 

Có gia đình mà không nơi cư trú

Thèm quê hương mà không phương tiện trở về

Sức khỏe đầy mình mà không nơi làm việc

Đành bộ hành rủ nhau về quê mẹ thân thương.

 

Dân nước mình đã ngàn lần chạy loạn

Bồng bế nhau mang vác gánh gồng

Người thành phố đã bao lần tản cư sơ tán

Nhưng chưa bao giờ nhếch nhác thế này đây!

 

Mẹ Tổ quốc đang thật đau lòng!

Nhìn thấy những đứa con mình quằn quại

Trong chiến tranh còn bài binh bố trận

Giặc cô-vi! Luôn biến thể tàng hình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nước có giặc mọi người đi giết giặc

Truyền thống ngàn năm chẳng tiếc máu xương

Nay có dịch toàn dân dập dịch

Dân lo một hai chính phủ lo mười...

 

Hỡi đồng bào những người đang khốn khó

Ai không xót lòng trước những thương đau

Hãy gắng lên gồng mình chống đỡ

Cơn bão nào dữ dội mấy cũng tan mau.

 

                                          Ngày 8.10.2021

SỢ DỊCH LÀ CHỐNG DỊCH

 

Sống ở đời ta vẫn sợ điều ngang trái

Không thuận buồm mát mái khó thành công

Đã coi là địch ta cần hiểu địch

Đất nước mình chưa một lần thua giặc ngoại xâm.

 

Ta chống giặc không bao giờ sợ giặc

Với bệnh dịch ư? Phải biết sợ kẻ tàng hình

Luôn rình rập như kẻ thù đánh lén

Cảnh giác cao, phòng chống vẫn hàng đầu.

 

Dịch cô-vi một loài biến thể

Không giống thương hàn, tả lỵ đậu mùa...

Gây tử vong cao toàn cầu khiếp sợ

Dập dịch an toàn cần ý thức của dân.

 

Khi mắc bệnh là ta bắt đầu lâm trận

Rất khó khăn khi sức khỏe cạn dần

Máy móc, kháng sinh như đồng minh trợ giúp

Thày thuốc cao tay mới thắng được kẻ tử thần.

 

                                         Ngày 10.8.202

THU THỜI GIÃN CÁCH

 

Thu cạn rồi tưởng như Thu chưa đến

Đêm sụt sùi không ngủ trắng khăn tang

Trời chẳng quang, mây quầng đen u ám

Loãng bóng người đi nhờn nhợt ánh trăng vàng.

 

Bao kỷ niệm cứ ùa về mùa Thu trước

Rất dịu dàng se lạnh chút heo may

Tay trong tay lá vàng cùng dạo bước

Đường Phan Đình Phùng nồng nhẹ men say.

 

Sẽ có một ngày không còn giãn cách

Trời lại trong xanh, điểm vài áng mây hồng

Hoa lại nở bung trong những ngày sinh nhật

Thu cùng Thu chơi trò con trẻ kéo mo cau.

 

Có phải không? Rồi một ngày Thu khát

Thu mang ngọt ngào trái ngọt hiến dâng

Để rồi Thu lại ủ Thu đến chín

Thu ấp Thu đến xao xuyến mọi miền.

 

                                                      Ngày 03.9.2021

 

 

 

 

 

 

 

HAI NGƯỜI CHIẾN SĨ

 

      Xưa anh là lính đi B*

Thương thương nhớ nhớ thư về cho em

      Trong rừng anh chẳng có tem

Gửi người ra Bắc anh kèm tấm khăn.

 

      Đêm nằm mưa rét thiếu chăn

Ngày nghe đạn réo lương ăn cạn dần

      Vẫn phải bám chốt giữ chân

Không cho quân giặc tới gần quân ta.

 

      Bây giờ dịch dã xót xa

Em là bác sĩ cũng là quân nhân

      Lao vào vùng dịch cứu dân

Cận kề cái chết không ngần ngại chi.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Dịch tràn khổ nhất ngành y

Em ơi! Gắng chịu cũng vì nhân dân

      Gian truân mình chỉ một phần

Thương người chạy dịch bước chân yếu mềm.

 

       Mong sao vùng dịch đừng thêm

Để dân lại sống êm đềm như xưa

      Cách ly, giãn cách, phòng ngừa

Vẫn còn covid em chưa chịu về.

 

                                   Ngày 20.8.2021

 

_______________

*Đi vào Nam chiến đấu chống Mỹ cứu nước

 

 

 

 

 

 

THƯƠNG NGƯỜI CHIẾN SĨ CÔNG AN

(Tặng các chiến sĩ công an quận Bắc Từ Liêm HN)

 

      Bao giờ covid hết mùa

Không gian ghì chặt thơ đùa gọi thơ

      Bao giờ hết những giấc mơ

Yếm đào nối nhịp đôi bờ gần nhau.

 

      Buồn trông đường phố rầu rầu

Tháng Bảy chẳng thấy mưa ngâu sụt sùi

      Không người qua lại tới lui

Anh ơi! Em sợ niềm vui không tròn!

 

      Cách ly giãn cách mỏi mòn

Lo ăn đã vậy các con học hành...

      Thương người chiến sĩ áo xanh

Cận kề bệnh dịch tạo thành vành đai.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      Tây Tựu, Thượng Cát, Minh Khai...

Giao thông huyết mạch không ai được vào

      Vùng xanh các chốt chắn rào

Công an cán bộ ngọt ngào thương dân.

 

      Chính phủ với Đảng đang cần

Lực lượng cảnh sát góp phần ngày đêm

      Đừng cho ca mắc tăng thêm

Mọi người lại sống ấm êm an lành.

 

                                       Ngày 19.8.2021

NỖI LÒNG NGƯỜI CHIẾN SĨ

(Tặng các chiến sĩ công an Bắc Từ Liêm HN)

 

Ngày xưa đất nước chiến tranh

Trai Từ Liêm lính tung hoành dọc ngang

Bây giờ đất nước sang trang

Lại gặp covid lây loang mọi miền.

 

Công an chiến sĩ trung kiên

Chuyển ngành xung trận giữ yên an lành

Khoanh vùng giữ chốt “vùng xanh”

“Vùng đỏ” nguy hiểm có anh lặng thầm.

 

Chống dịch như giặc ngoại xâm

Thương dân giãn cách hoá lâm cảnh nghèo

Bao người gặp cảnh gieo neo

Đêm Thu lành lạnh gió heo chạnh lòng.

 

Lòng anh như mớ bòng bong

Việc nhà việc nước chưa xong rối bời

Nỗi lòng chia sẻ đầy vơi

Mong sao đất nước mãi vời vợi xanh.

 

                                                Ngày 17.8.2021

CHUYỆN LÀM CHUYỆN ĂN

 

      Từ quê ra phố bán hàng

Thuê nhà mở tiệm đàng hoàng như ai

      Bây giờ cửa đóng then cài

Chỉ sợ giãn cách kéo dài thời gian.

 

      Bao nhiêu vốn liếng tiêu tan

Đến khi hết dịch ngồi than khóc thầm

      Làm ăn hoảng nhất tiền âm

Rồi ra vỡ nợ tĩnh tâm sao đành.

 

      Chỉ mưu sinh cũng chẳng thành

Nói chi con cái học hành ra sao!

      Là người đứng mũi chịu sào

Đảm đang cũng chịu lao đao chuyến này.

 

      Ở đời chớ vội nói hay

Thất cơ lỡ vận tiền bay đằng tiền

      Làm gì cũng phải có duyên

Vài lần giãn cách buồn phiền phải cam!

 

                                                    4.8.2021

LỤC BÁT BÂY GIỜ

 

       Bây giờ lục bát lạ chưa

Xuống dòng tuỳ tiện ngắt bừa vụn ra

     “Trăm năm trong cõi người ta”

Truyện Kiều cũng vậy thì ra thế nào!

 

      Những câu lục bát ngọt ngào

Từ ngàn năm đã đi vào dân ca

      Từ khi chữ viết chưa ra

Đã có lục bát ngân nga ru hời.

 

      Bây giờ lục bát người ơi!

Câu lục làm kết chơi vơi thế nào

      Thêm câu bát nữa thì sao

Đủ cặp ta thấy ngọt ngào dễ nghe.

 

      Câu thơ cho đến ca vè

Đã là lục bát đừng đè cách tân

      Bài thơ vụn vặt lạc vần

Đọc như bị vấp ra phần nhỏ nhen.

 

                                   Ngày 05.8.202

 

NHẤT NÔNG NHÌ SĨ

(Tặng nhà thơ Phạm Miện)

“Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”*

 

      Ngày xưa “nhất sĩ nhì nông”

Ô tô xe máy chạy rông đầy đường

      Bây giờ nghỉ việc không lương

Nhà quê “sĩ tướng” bốn phương tìm về.

 

      Ngày xưa rượu ngoại cà phê

Có người đưa đón khi về lúc đi

      Bây giờ đóng cửa công ty

Hết công hết việc “sĩ nhì, nhất nông”.

 

      Vườn cây ao cá rau trồng

Không mua không bán cũng không thiếu thừa

      Chẳng giàu sang cũng vừa vừa

Đủ ăn đủ uống sớm trưa tối ngày.

 

      Từ ngày giãn cách đến nay

Không ra khỏi ngõ không vay không đòi

      Cũng là một tấm gương soi

“Nhất nông nhì sĩ” chuột voi khó lường.

 

 

XA QUÊ

 

      Ngày xưa áo vá nón mê

Dãi dầu mưa nắng không chê quê nghèo

      Chăn trâu, cắt cỏ, băm bèo

Nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo chẳng nề.

 

      Ngày thường còn nhớ đến quê

Bây giờ giãn cách biết về làm sao!

      Đất dày ơi! Hỡi trời cao!

Người thân lỡ mất như bào ruột gan.

 

      Cách ly chống dịch tràn lan

Con không về được muôn vàn xót xa

      Mùa dịch năm ngoái giỗ cha

Con đành bất hiếu từ xa vái về.

 

      Rạ rơm vấn vít nhà quê

Con đò bến nước triền đê ao đình

      Tha hương là những nhục vinh

Bây giờ dịch dã thương mình xa quê.

 

                                       4.8.2021

 

 

THÔI ĐÀNH

 

      Vợ chồng tình nghĩa bấy nay

Bây giờ sao thấy đắng cay muôn phần

      Chẳng chia tay vẫn ngại ngần

Biết đâu tiếp xúc mây lần Fo.

 

      Ngoài kia nhộn nhạo cộng đồng

Đã tiêm hai mũi tương không nhiễm gì

      Vài ngày y tế gọi đi

Cô - vi  dương tính bởi vì chủ quan.

 

      Bây giờ dịch dã tràn lan

Đừng cho là đã bị oan ra đường

      Bình thường mới chẳng bình thường

Phòng riêng mỗi đưa một giường là hơn.

 

      Thôi đành đừng giận đừng hờn

Biến chủng coovid chập chờn bóng ma

      Bao giờ dịch dã can qua

Bình thường như trước thì ta chung phòng

 

 

 

 

 

MỚI 

 

Một tư duy

một ngôn từ, một câu thơ, một lời văn

Một nét cọ trên bức tranh sắp vẽ

Một âm thanh trong bản nhạc vừa cảm xúc

Một công trình xây dựng nguy nga.

 

Một chiếc cầu nhỏ bắc qua sông

Một nếp nhà đơn sơ bé nhỏ

Một vườn hoa

Những đồ dùng tập thể

Một vật dụng cá nhân.

 

Một cô vợ dại

Một gã chồng khờ

Một cuộc đời khốn khó

Một xã hội đầy những chật chội bon chen…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tất cả

Tất cả

Tất cả đều muốn mới

Hoa trong bình cũ muốn bỏ đi

Một năm đầy rủi ro hờn tủi

Tất cả đều muốn đổi thay.

 

Chúc mừng năm mới

Riêng coovid – 19

và tình yêu xin đừng bao giờ mới

Để hạnh phúc quanh ta thật hạnh phúc chan hòa

 

 

NHÀN NHẠT

 

Nhàn nhạt nghĩa là chưa hẳn nhạt

Vẫn đâu đây còn chút mặn mòi

Không dứt vì chẳng có lý do gì để dứt

Kệ thế thôi chẳng thiếu cũng không thừa.

 

Nếu cảm thấy thừa thừa một chút

Nghĩa là có cũng chẳng sao

Tất cả mọi thứ đã trở nên nhàn nhạt

Chưa giống bức tường bạc phếch như vôi.

 

Thời gian cứ lặng lẽ trôi

Tất cả như chẳng có gì giàng buộc

Cứ âm thầm chìm vào quá khứ

Nhàn nhạt phai chỉ thiếu chút mặn mà!

 

Vì dịch dã chẳng được gặp nhau

Lúc mới đầu sao nhớ nhau đến thế

Như con chim chỉ muốn sổ lồng

Nhạt dần, nhạt dần tất cả như không.

 

 

 

 

 

 

 

Tin covid giờ cũng không nóng hổi

F1, F0 lẫn lộn đầy đường

Ca mắc vẫn tăng ít người để ý

Vì đã nhạt rồi cũng đỡ tang thương.

 

Tết năm nay có cái gì nhàn nhạt

Người bán người mua thấp thoáng chợ hoa

Ai cũng chỉ săm sanh vừa đủ

Chẳng tính đi đâu khách sẽ bớt đến nhà.

 

Đã nhàn nhạt cũng chẳng cần hâm nóng

Sâu sắc chi đâu khi đã thấy đủ rồi

Cứ lặng im không lời tri kỷ

Sợ nhạt hẳn rồi dễ quên hết kỷ niệm xưa.

 

                               Ngày 27. Tết Nhâm Dần

                                               28.01.2022

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỐ NƠI PHONG TỎA

 

Phố! Cả ngày lẫn đêm im bặt

Không nghe thấy tiếng xe đi

Cũng chẳng có tiếng người

Tiếng nhạc loa đài càng không có

Chỉ thấy xe chở rác lục cục tiếng thùng.

 

Bữa ăn đạm bạc

Vài ngày lại khẩu trang kính chắn

âm thầm lặng lẽ ra chốt gửi mua rau

Cửa sổ mọi nhà cũng không ai dám mở

bởi quanh nhà mình toàn những Fo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đang giấc ngủ giật mình thức giấc

Lại xe cứu thương còi rú vào phường

Không biết nhà ai lại thêm ca nhiễm mới!

Nỗi lo âu phấp phỏng, sợ cháu con mình.

 

Trời đất ơi! Bao giờ cho hết dịch

Phong tỏa thế này có khác tù giam

Lại còn lo sau khi mở chốt

Liệu có an lành để kiếm kế sinh nhai.

 

                                  Phú Đô 25.11.2021

THƯƠNG MÌNH

 

       Ngoài hiên tí tách mưa rơi

Ai chờ ai đợi, ai vời vợi xa

      Gió lay tàu chuối sau nhà

Luồn qua song cửa, lạnh va vào lòng.

 

      Mưa bong bóng, mưa phập phồng

Chồng thì vẫn đấy, mà không có chồng

      Có người tìm lá “diêu bông”

Tìm làm chi nữa viển vông đợi chờ!

 

      Tình yêu sao đẹp như mơ

Biết là không thể, vẫn chờ vẫn mong

      Búi tơ hồng - mớ bòng bong

Trời cao cao quá, vít cong sợi tình.

 

      Thương em rồi lại thương mình

Vẫn mơ như được cây quỳnh cành giao

      Cô-vi như bức tường cao

Muốn sang không dám xé rào để sang!

 

                                      28.10.2021

 

 

 

PHẦN 2

LỜI BÌNH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỰ SỐNG ĐƯỢC HỒI SINH TRONG THƠ THÚY QUYÊN QUA THI PHẨM “THƠ VIẾT CHO MÌNH”

 

THƠ VIẾT CHO MÌNH

 

Đã từ lâu lâu lắm

Em chẳng nghĩ đến ai

Vì em sợ ngày mai

Đời còn nhiều gian dối…

 

Một chiều thu anh tới

Cho em niềm tin yêu

Em thấy mình trẻ lại

Nhớ về anh rất nhiều.

 

Em đón nhận tình yêu

Dù chẳng có bao nhiêu

Chút tình chiều chợt thức

Sưởi ấm hồn cô liêu.

 

 

 

 

 

 

 

Sớm chiều em mong ngóng

Đợi anh đếm từng giây

Dâng tặng anh tất cả

Men tình ta cùng say.

 

Ta có nhau từ đấy

Quên cả tháng năm xưa

Quên hết niềm đau cũ

Nhớ chi ngày gió mưa.

 

Hết rồi chiều bơ vơ

Để em lại làm thơ

Kể chuyện tình muôn thuở

Đẹp như một giấc mơ.

 

                   5.2020 - Thúy Quyên

Lời bình: Của Nghiêm Thản

 

      Đơn côi là sự lẻ loi đơn chiếc không mong muốn cho tất các loài sinh vật. Với các loài thực vật cỏ cây hoa lá vô chi vô giác nhưng chúng có một thứ tình cảm vô hình chúng ta không thể nhìn thấy được, những hiện tượng cụ thể xảy ra hàng ngày cho ta thấy hình như chúng cũng có sự suy nghĩ. Hầu như các loài cây đều tự vươn mình tìm nơi ánh sáng, coi ánh sáng là bầu bạn tri âm để quang hợp. Có loài cây thân leo yếu ớt thì tìm đến những cây cao bóng cả để leo lên tựa vào nhau mà sinh sống. Có loài cần sự che chở của bóng rợp tán lá. Một cây tre già tưởng như đã sắp lụi tàn vẫn trồi ra một cái măng non để sinh tồn nòi giống. Tất cả chúng muốn thành bụi thành lũy thành rừng để chống chọi với phong ba bão lũ. Với các loài động vật chúng luôn sống thành bầy đàn để bảo vệ cho nhau. Chúng cũng có đôi có lứa, sinh con đẻ cái, chúng cũng biết âu yếm nhau. Còn con người thì sao? Có lẽ sự cô đơn là kẻ thù số một. Khi con người bị rơi vào hoàn cảnh cô đơn họ sẽ khổ đau, dằn vặt, tâm can bị giằng xé, héo mòn cả phần hồn lẫn phần xác. Họ muốn thoát ra khỏi bốn bức tường lạnh lẽo, họ khát khao muốn giang rộng cánh để bay, để tìm một khoảng trời mới cho riêng mình. Bài thơ “Thơ viết cho mình” của nữ nhà thơ Thúy Quyên đã minh chứng cho điều đó. Một sự sống được hồi sinh trở lại khi tình yêu đến

     Ngay khổ đầu tiên, câu thơ đầu tiên nữ sĩ Thúy Quyên viết với giọng tự sự, lời thơ chân thực mộc mạc “Đã từ lâu lâu lắm / Em chẳng nghĩ đến ai” nhưng lại rất ảo, bởi tác giả không hề nói đến tình cảm của quá khứ, ngoài từ “gian dối”, mà tác giả cũng chuyển tải được sự cô đơn lạnh lẽo, gần như tuyệt vọng… Qua điệp từ “lâu lâu” tác giả đã dựng lại một sự cô đơn kéo dài dằng dặc làm cho người phụ nữ đa sầu đa cảm héo hon đến mòn mỏi vì cuộc đời gặp nhiều ngang trái, và chị sợ một ngày mai “Đời còn nhiều gian dối…” Với dấu chấm lửng (…) người đọc cũng rất thông cảm và chia sẻ với người phụ nữ đã từng khổ đau quá nhiều rồi. đây cũng là cách dùng thán từ đúng câu đúng chỗ của Thúy Quyên. Cũng vẫn giọng tự sự theo chiều mặt phẳng dễ hiểu bên trong lại chứa đựng một hàm xúc khát khao Thúy Quyên chị viết:

“Một chiều thu anh tới

Cho em niềm tin yêu

Em thấy mình trẻ lại

Nhớ về anh rất nhiều”.

      Đọc tiếp 2 khổ thơ sau người đọc ngỡ là một tình yêu sét đánh, nhưng không, đây là sự khát khao, sự ham muốn tình yêu của người phụ nữ đến cháy bỏng đã ấp ủ từ lâu. Cũng giống như PusKin viết “Anh yêu em âm thầm không hy vọng / Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen”. Và như nhà thơ NT viết về sự khát khao tình yêu của những người lính biển:

“Gom hết lửa để đốt cháy tình yêu

Sống giữa đại dương mà ta vẫn khát”

     Quả thật hơi ấm của tình yêu thật mãnh liệt nó mang lại sự sống cho con người: “Cho em niềm tin yêu / Em thấy mình trẻ lại” Những người cảm nhận được tình yêu, đang yêu họ sẽ có nhiều niềm tin, tự tin hơn, yêu đời hơn, thấy cuộc đời ý nghĩa hơn và quỹ thời gian của họ sẽ được kéo dài hơn. Đọc câu thơ cuối khổ thứ 2 “Nhớ về anh rất nhiều” ta mới thấy thấm thía những lời yêu của ông cha ta là “phải lòng” nhau. Từ yêu nhau đến “phải lòng” nhau là một thời gian là một khoảng cách mà nhiều người không thấy được. Hai người yêu nhau, có khi chỉ một người “phải lòng” vì người ấy luôn nhớ đến người mình yêu, trong ăn trong ngủ trong mơ đều thấy hình bóng của nhau, yêu đến si mê khờ dại, muốn hiến dâng tất cả để hai tâm hồn hai thể xác được trộn vào nhau. Nếu không gặp nhau họ như không thể chịu được, đó là “phải lòng mặt” Tình yêu thật diệu kỳ nó muôn sắc muôn màu, lời thơ cứ tưng tửng giãi bày tình cảm của mình:

“Sớm chiều em mong ngóng

Đợi anh đếm từng giây

Dâng tặng anh tất cả

Men tình ta cùng say.”

     Trong tình yêu thật nhiều sắc thái. Tình yêu đơn phương, một tình yêu chỉ đơn lẻ một mình, không được đón nhận sự ưu ái ngọt ngào chiều chuộng của người mình yêu, thật đau khổ vẫn đành cam chịu. Tình yêu giả dối một thứ tình yêu không thể bền lâu bởi đó chỉ là những thủ đoạn, những âm mưu, những toan tính để hoặc chiếm đoạt thể xác hoặc cơ hội chiếm đoạt tài sản, hoặc lợi dụng nhiều điều, lừa lọc rồi làm tan nát trái tim người yêu mình. Vậy đâu mới là đỉnh cao của tình yêu? Hôn nhân ư? Sự thỏa mãn về thể xác ư? Không phải! Có những cặp tình yêu họ đến với nhau, trao tình cảm cho nhau chỉ vì nể nhau, những cặp vợ chồng vẫn sinh con đẻ cái đấy thôi, họ vẫn thương nhau, có trách nhiệm làm vợ làm chồng, nhưng chưa chắc họ đã có tình yêu. Vậy tình yêu là gì? Tình yêu phải có sự đồng cảm với nhau, phải có tri thức về tình yêu, phải biết thông cảm tha thứ cho nhau, hiểu nhau nhiều hơn và sâu sắc hơn. Phải biết kính trọng nhau, tôn trọng nhau chưa bao giờ đủ. “Đợi anh đếm từng giây / Dâng tặng anh tất cả”. Ở đây ta bắt gặp từ “đếm” mà lại đếm từng giây ta mới thấy cách dùng từ của tác giả “đếm từng giây” chứ không phải đến từng giây. Rõ ràng Thuý quyên đã biết chọn lựa từ để đẩy tứ thơ lên đến cao trào để diễn đạt biểu cảm tình cảm của người đã phải lòng cao hơn hẳn khi mới yêu và đang yêu. Sự nhớ nhung, chờ đợi, sự khát khao của tình yêu lên đến tột đỉnh của tình yêu. Đây mới là tình yêu đích thực, mới là đỉnh cao của tình yêu, đó là sự “sẵn sàng” dâng tặng nhau, trao thân gửi phận cho nhau. Nếu không có sự sẵn sàng hy sinh cho nhau che chở cho nhau chưa có thể gọi là đỉnh cao của tình yêu. Câu thơ thể hiện một tình yêu cháy bỏng mạnh mẽ nhưng lại vừa là câu lý giải cho câu hỏi “Thế nào là tình yêu và đâu là đỉnh cao của tình yêu” càng ngẫm nghĩ ta càng thấy thú vị. Trong tình yêu ít người viết mạnh mẽ như Thuý Quyên. Cũng để thể hiện một tình yêu mãnh liệt nhà thơ Lê Nghiêm chỉ viết:

               “Truyện trong phim là ngoài đời có thật

Anh hứng mũi tên cho em được sống

Thế mới biết tình yêu vô cùng mãnh liệt

Em hạnh phúc rồi còn có nhớ tới anh!”

      Hơi thở của tình yêu như có phép nhiệm màu họ quên đi tất cả những khổ đau những dằn vặt, những vết sẹo tưởng như không bao giờ xóa nổi: “Ta có nhau từ đấy/ Quên cả tháng năm xưa / Quên hết niềm đau cũ / Nhớ chi ngày gió mưa”. Thế là họ đã tìm đến một chân trời mới, một khoảng trời riêng cho mình, họ thấy hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, tự tin hơn, trẻ đẹp hơn, cuộc đời như được sang trang mới:

“Hết rồi chiều bơ vơ

Để em lại làm thơ

Kể chuyện tình muôn thuở

Đẹp như một giấc mơ”

      Bài thơ được nhà thơ Thúy Quyên viết theo thể ngũ ngôn được cắt thành 6 khổ giàu nhạc điệu, lời thơ da diết yêu thương, nồng nàn, tự sự mà không kể lể, thể hiện một tình tình yêu cháy bỏng mặn nồng cùng sự khao khát, ham muốn một tình yêu đích thực của người phụ nữ mà bấy lâu nay vẫn âm thầm giấu kín phải sống trong đau khổ dằn vặt giằng xé tâm can tưởng như không còn một tia hy vọng. Khi tình yêu đến tất cả như được hồi sinh trở lại, như chim được sổ lồng soải cánh bay tung trời. Bài thơ kết có hậu như nhắc nhở mọi người hãy biết giữ gìn những gì ta đã và đang có đừng để tuột khỏi tay, hãy chung thủy yêu nhau hơn, tôn trọng nhau hơn, kính trọng nhau hơn. Nhiều người viết thơ về tình yêu các bài thường na ná giống nhau, cho nên dù viết nghìn bài vẫn chỉ là một bài. Ở đây Thúy Quyên viết có cá tính riêng, một tình yêu ngọt ngào nhưng rất mạnh mẽ, dù chị viết về chị hay chị viết cho một người khác cũng là tiếng nói chung cho những người đau khổ về tình và sự khao khát một tình yêu đích. Những người đang yêu họ thấy cuộc sống ý nghĩa hơn, họ thấy tất cả cái gì cũng đẹp. Đây cũng là một thành công trong sự nghiệp văn chương của chị. Xin chúc mừng chị! Chúng tôi hy vọng sẽ được thưởng thức nhiều thi phẩm hay.

 

                                       05.7.2020 - Nghiêm Thản

 

 

 


 

“GIỌT ĐĂNG” LÀ NHỮNG TÂM TƯ TÌNH CẢM NHƯ NHỮNG TRANG NHẬT KÝ CỦA NHÀ THƠ VIỆT HỒNG

 

“GIỌT ĐẮNG” Là tập thơ thứ 6 của Việt Hồng. Đây là những trang nhật ký vô cùng sống động ghi lại bằng thơ, anh viết ra từ máu thịt của mình. Anh chia sẻ những buồn vui, những mất mát của cuộc đời, những đầy vơi, chát chúa của anh và những người xung quanh anh, của gia đình và xã hội… Bên cạnh đó anh ca ngợi non sông đất nước, quê hương, bè bạn, tình cảm vợ chồng, tình yêu đôi lứa…

     Bước chân anh – dấu chân người lính, và cũng là bước chân lãng tử phiêu du của một văn nghệ sĩ, anh đặt chân trên khắp mọi miền Tổ quốc. Khi tới hang Cắc Cớ anh viết :“Gặp nhau hang Cắc Cớ này/ Sáng Xuân trời rắc mưa đầy tiết xuân”(Gặp nhau ). Lễ hội chùa Thầy vào tiết tháng ba, hương xuân còn đang phơi phới, anh đã chớp lại được hình ảnh thật đẹp, và cũng thật kì ngộ, anh gặp bạn lại đúng nơi hang Cắc Cớ, nơi truyền thuyết cho rằng đây là xứ sở của tình yêu. Đến hồ Phan Thiết tỉnh Tuyên Quang cũng vậy:“Hồ Phan Thiết chiều về đầy nắng/ Như trăng non ôm lấy vạt rừng/Nhà bảo tàng chứng nhân lịch sử/ Đứng bên hồ trầm tĩnh với thời gian”(Bên hồ Phan Thiết). Thời gian đi qua là thước đo lịch sử, những dấu tích còn lại là những minh chứng. Hồ Phan Thiết với con  mắt nghệ thuật của nhà thơ Việt Hồng đẹp như mảnh trăng non ôm lấy vạt rừng, Thành Tuyên đã ghi lại một thời oanh liệt chống Pháp, thì cột cờ tại cố đô Huế cũng là những minh chứng cho triều Nguyễn một thời: “Cột cờ đã mấy trăm năm/ Chứng minh hưng phế thăng trầm đời vua” (Cột cờ).“Tham quan khách nghĩ đủ điều/ Ghét yêu đem thả tím chiều sông Hương”(Hoàng Thành Huế ). Những ai được may mắn một lần đến Huế đều khắc vào hồn mình cảnh đẹp mộng mơ tím chiều mờ ảo của sông Hương núi Ngự. Đi sâu hơn nữa tới thành phố Đà Nẵng anh lại bắt gặp cảnh đẹp nên thơ của sông Hàn, nhưng cũng không thể không ngậm ngùi xót xa khi nhớ tới đồng đội của mình, bao người đã ngã xuống nhuộm đỏ khúc sông này:“Nhạc reo sóng nước dập dình/ Nhớ bao đồng đội hy sinh nơi này/ Thả đèn cầu phúc cầu may/ Rưng rưng lại nhớ những ngày nổi trôi/ Lặng nhìn bóng nước xa xôi/Vài giây mặc niệm đứng ngồi bên anh”. (Bên sông Hàn). Là người lính ai không đau lòng khi đồng đội của mình ngã xuống, nhà thơ Việt Hồng trước cảnh đẹp của một khu du lịch, mà anh rưng rưng nước mắt nhớ lại những ngày chiến đấu căng thẳng để giữ lấy từng mảnh đất, gian khổ sống chết có nhau. Cũng như nhà thơ Trương Nam Hương khi nhớ đồng đội anh viết:

            “Máu người thấm đỏ rừng xanh

      Trường Sơn mây trắng mát lành vẫn bay

            Cho tôi thắp trái tim này

      Thay nhang cháy đỏ những ngày nhớ nhau”

                                               (Nhớ đồng đội)

     Người lính cụ Hồ là vậy, Việt Hồng là vậy. trong chiến tranh hay lúc đời thường thơ anh vẫn cho ta thấy sức vươn trong cuộc sống:“Thỉnh thoảng mèo kêu nghe não ruột/ Nhiều khi chuột chạy thấy nhàu gan/Ngẫm suy cho kỹ đời cua cáy/ Tự lực vươn lên có phúc phần”(Vươn lên). Tự lực vươn lên, cũng như tích đức lũy nhân, không phải để riêng cho mình mà để cho muôn đời con cháu mai sau. Thơ của Việt Hồng đầy tính lạc quan “Tà áo trắng như những làn mây trắng/Dệt thành thơ cây lá rộn tiếng chim/ Anh mang về tặng em đôi ngọc/ Cả đời anh đồng đội kiếm tìm”.(Đôi ngọc). Đôi ngọc chính là đôi mắt, khi tuổi đã về già, hay bị ảnh hưởng của chiến tranh, tưởng như đã cướp đi đôi mắt. Nhưng với trình độ khoa học hiện đại bây giờ cùng các y bác sĩ bệnh viện 354 bộ quốc phòng đã trả lại cho anh đôi mắt ngọc. Mắt anh lại sáng, anh lại đi, anh lại viết. Anh viết cho quê hương:“Chợ quê họp giữa làng quê/ Mái lều tranh với câu thề kết duyên/ Chẳng cần hẹn vẫn cứ lên/ Tình làng nghĩa xóm khắc lên tranh này”(Tranh quê). Cái thú vị nhất ở chợ quê, mà có lẽ chỉ có chợ quê mới có những bức tranh Đông Hồ, tranh dân gian. Tranh vẽ về quê thật đẹp, hay thơ anh đã dệt nên những bức tranh quê thấm đẫm tình người, tình quê là vậy tình người là vậy:“Đi xa theo mãi mầu quê ấy/ Lắng đọng trong con tiếng sáo diều”(Mầu quê). Là người Việt Nam ai cũng vậy, dù quê mình nghèo khó đến đâu, khi xa quê sống nơi cao sang quyền quý, hưởng cao lương mĩ vị, nhưng vẫn không thể quên được nơi chôn nhau cắt rốn của mình, bởi nơi ấy mang đầy kỉ niệm của tuổi thơ, mang đầy cái chất quê, cái chân chất , cái gốc của mỗi con người :

        “Rượu trà chưa uống đã tường

          Dại khôn cùng với tà dương vụng về

                  Xa quê vẫn chất nhà quê

          Chia tay em. Bước nặng nề gió trăng”.

                                                    (Chia tay)

     Cái dại cái khôn, cái khéo léo và vụng về của mỗi con người đâu có thể định liệu được cuộc đời. chính vì thế mà anh thấy đau đáu trong lòng khi thấy các hủ tục còn sót lại trong xã hội như mỗi khi: “Bạn mời dự cưới con/ Thiếp chữ vàng màu son/ Người lọng ô lễ hội/ Kẻ thiếp cầm bối rối”(Bối rối). Anh bối rối, rất nhiều người bối rối khi nhận được lá thiếp mời hồng tươi thật đẹp; có phải chăng đó là những lá “phiếu chi” khi đồng lương còn ít ỏi. Thơ của Việt Hồng đã phản ánh được cái rất thật của đời thường mà mọi người đang băn khoăn trăn trở. Cũng chính vì thế mà anh càng thương vợ thương con hơn:

           “Nội trợ giúp em nhiều

            Yêu chiều em hết mức

             Anh người chồng đứng mực

             Để mọi người noi theo”

                                       (Bài thơ tặng anh)

     Việt Hồng viết bài “Bài thơ tặng anh” nhân ngày 8-3 ngày quốc tế phụ nữ, dường như anh thấu hiểu được những thiệt thòi, yếu đuối, mất mát của chị em phụ nữ, của riêng vợ anh. Nhưng với bạn hữu cũng chẳng kém phần:“Đương mùa nắng hạ bỏng lưng/ Đạp xe thăm bạn đi cùng nàng thơ/ Mát lòng một bát riêu cua/ Tặng cho tập sách hồn xưa mất còn”(Thăm bạn). Nhà thơ chia sẻ cái mất còn của tình bạn bao năm xa cách, anh mát lòng khi ăn bát riêu cua mang hương vị đồng quê gió nội, hay anh mát lòng khi thấy hồn xưa vẫn còn. Anh thông cảm với bạn bè bao năm tháng thăng trầm mưu sinh: “Chở đò đã bốn mươi năm/ Bão tố thác ghềnh vẫn vững chân/ Gia giáo, nếp nhà, tâm sáng tỏa/ Nghĩa nhân, phúc lộc, quí vô ngần” (Chở đò). Bạn bè là vậy, bạn anh là một nhà giáo, anh tôn trọng người giáo viên như những người lái đò, chở khách qua sông, dù gian nan vất vả mà vẫn có tấm lòng nghĩa nhân, có một gia đình gia giáo, nề nếp. Khi tuổi đã xế chiều tâm hồn còn thanh thản không một chút vẩn đục:

             “Về hưu sống giữa quê nhà

              Thanh thản yên vui với tuổi già

              Sáng ngắm chim câu say luyện cánh

              Chiều xem cây cảnh mải đơm hoa”

                                                      (Thanh thản)

    Trên đây là những dòng tâm tình, những “GIỌT ĐẮNG” của nhà thơ Việt Hồng với đồng đội, anh em bè bạn, với bậc cao niên… Còn với tình yêu đôi lứa dường như anh viết còn khiêm tốn hơn, nhưng khi đã đặt bút thì ngọt ngào, đằm thắm thiết tha. Có lẽ anh còn luyến tiếc cái tuổi thanh xuân ngu ngơ, khờ dại của mình:“Bất ngờ gặp cánh hoa tim/ Từ trong ánh mắt anh tìm ngẩn ngơ/ Tìm về một thuở dại khờ/ Tìm trong những buổi mộng mơ tím chiều”(Bất ngờ). Phải chăng một thuở dại khờ, và những buổi mộng mơ của thi sĩ đã mất đi do cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. những tình cảm thân thương ấy bây giờ anh dành cả cho bạn hữu, người thân, cho vợ, cho con, cho cháu:“Cháu đi mẫu giáo về/ Thấy bà ngồi đầu ngõ/ Cùng với lọ dưa cà/ Cháu nở nụ cười hoa/ Cháu yêu bà nhiều nhất” (cháu đi mẫu giáo về). Anh hài lòng với những lời ngộ nghĩnh của cháu, anh vui chung cùng với gia đình khi đứa cháu đích tôn ra đời:

              “Hoa đào còn nhớ hoa mai

       Vườn xuân đơm lộc trong ngoài vui chung”

                                         (Vườn xuân đơm lộc)

    Mùa xuân đến trăm hoa đua nở, vườn nhà ai hoa đào rực rỡ, thì vườn xuân nhà anh mai vàng đơm lộc trổ bông. Những trang nhật ký bằng thơ của Việt Hồng thật da diết mặn nồng, ta còn thấy cái nghẹn ngào chua xót cay đắng của một tâm hồn thi sĩ khi hạnh phúc gia đình chưa trọn vẹn:“Mười năm dạy học xứ người/ Tự nhiên con nói con cười đâu/ Mười năm con được làm dâu/Mẹ thày yêu quí mong cầu vẹn đôi”.“Con giờ như thật như đùa/ Dậy học không được, chẳng mua bán gì” (vườn xuân đơm lộc). Anh xót xa cho con dâu mình, đang là một cô giáo dạy học cấp 3, mà bây giờ như ngây như dại. Phải chăng đây là gánh nặng của cuộc đời anh, để anh viết nên những vần thơ ngậm ngùi ấy. Chưa đủ, anh còn xót xa hơn khi viết những vần thơ để tìm con, (một đứa con gái đã bị bọn buôn người bắt bán cho Trung Quốc), khi tìm được con, thì con lại ở một khoảng trời xa lạ. Những dòng thơ viết cho con mà như dao cứa vào lòng:“Nghe con nói, nghe con cười/ Thấy hình con giữa khoảng trời xa xôi/ Vui là vui thế, thế thôi!/ Thày mẹ thắc thỏm bời bời bấy nay/ Bờ sông mưa bụi lắt lay/ Con cò chạm xuống rồi bay phương nào”(Nói với con). Đây là những dòng tâm sự, những “GIỌT ĐẮNG” anh viết ra từ gan ruột của mình, anh thổn thức bằng thơ, anh dửng dưng với những được thua, mất còn ở đờiĐêm  đêm anh nằm nghe đồng hồ tí tách đếm thời gian mà não lòng não ruột, nước mắt anh rơi ướt thấm màn. Những vần thơ anh viết thật cảm động, mủi lòng:“Con  mình giờ tưởng con ai/ Cháu mình giờ của người ngoài lạ chưa!” (Nói với con). Đọc thơ của Việt Hồng mà tôi thấy chạnh lòng, muốn gần gũi anh hơn. Xin chia sẻ những đầy vơi với anh cùng gia đình. Chúc gia đình hạnh phúc, chúc anh khỏe mạnh, vững vàng trong cuộc sống, có nhiều cảm xúc hơn để các độc giả được đọc tiếp những vần thơ trữ tình của anh. Xin mời độc giả tìm đón đọc

 

                                          Ngày 24 - 6 - 2013

                                               Nghiêm Thản

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GHI Ở BÃI GIỮA SÔNG HỒNG

(Truyện ngắn của Minh Hiền)

 

Em í tên là Mây. Cái quần lửng bó chặt đùi như hai cột đình, lòi ra đoạn chân ngắn tũn. Cái áo có vẻ rộng dài có vẻ rộng dài lùng bùng trùm mông màu cháo lòng, sao ngày nào nó cũng giống nhau thế. Nếu là tôi phải đánh số mới phân biệt được. Được cái hay cười, mái tóc xanh đen như gỗ mun, lại còn buộc cong tớn lên như người chuẩn bị đi mổ lợn. Khiếp! Người đâu mà cổ lỗ sĩ thế không biết. Ra Hà Nội có dễ phải trên dưới 20 năm mà chả thấy thay đổi gì. Em làm ô - sin cho người hàng xóm của tôi, ngoan ngoãn thật thà nên được bà chủ yêu quí, thỉnh thoảng lại cho em bán hàng đỡ bà. Đến bây giờ vẫn thuỷ chung với nghề, chẳng chịu về quê lấy chồng nữa chứ.

     Nhà bà chủ ở ngay mặt đường nhỏ, nên mở hàng cafe là thích hợp nhất. Phố yên tĩnh mùa hè hàng cây bằng lăng hoa tím mát rượi. Cũng không biết bà quê gốc ở đâu, nhưng khi tôi về đây đã thấy có nhà bà ở đây rồi. Bà cao cao, hơi mập kể ra thì thân hình cũng cân đối. Dường như bà bằng lòng với cái thân hình của mình. Thỉnh thoảng bà cũng cân chỉnh chế độ nọ chế độ kia. Ôi giời! Gày được vài hôm thì béo bảy tháng. Bà hay nhìn xa xăm và ngồi thừ ra khi vắng khách, rồi lại lạch xạch chiếc xe đạp đi mua cam chanh, thuốc lá về bán. Bà bảo đi xe đạp là để tập thể dục cho khoẻ người. Sáng nào bà cũng dậy sớm nấu cơm gạo lứt và thức ăn thực dưỡng cho ông nhà mang đến cơ quan để ăn trưa.

     Ông nhà cũng oách lắm. Phải cái hơi lùn, nghe đâu cũng chịu khó tập xà mà chẳng khá lên được. Ông là giáo sư tiến sĩ gì gì, giảng dậy ở một trường đại học có tiếng ở Hà Nội. Ông có chiếc xe bốn chỗ màu trắng tự lái lấy rất oai. Thường thì chiều tối muộn ông mới về nhà. Mỗi khi về đến nhà, chỉ việc căn chỉnh cho xe lên vỉa hè mà ông cứ loay hoay tiến lên lùi lại mãi. Một hôm ông đâm sầm vào cây bằng lăng nghe rắc một cái, cây đổ xuống mặt đường làm tắc nghẽn giao thông khoảng một giờ đồng hồ. Già rồi! Chân tay yếu ớt chậm chạp, mắt mũi kèm nhèm, vẫn cố lái chỉ để giải quyết khâu “oai”.

     Công việc cần mẫn với hàng quán khiến hàng xóm cũng mủi lòng. Lúc nào rảnh việc bà lại dạy em ô - sin cách pha phách các món đồ uống mới. Giọng bà oang oang: Xay - xong rồi - pha sữa - café… sau cùng mới cho đá - cắm thìa mới mang ra cho khách.

     Chậm chạp bê ra! Khách quen với điệu bộ này lắm rồi. Một ông khách nửa đùa nửa thật:

     - Ngày mai còn cho cô nhân viên ục ịch này bán hàng là chúng tôi giải tán! Biết thế bà cười rất hiền đôn hậu và việc ai người ấy làm như một guồng quay của xã hội. Lâu rồi cũng ổn ấy mà.

     Thực ra bà rất bằng lòng với cô ô - sin của mình, tuy có xấu xấu một tí, chậm chạp một tí nhưng được cái thật thà. Thi thoảng khách rơi tiền nhặt được còn mang trả.

     Hôm nay thật lạ bà đi chợ mua về một xâu bìm bịp đen xì. Chẳng biết nghe ai! Bà bảo em ô - xin đổ rượu vào bình rồi thả từng con vào. Khiếp! Chẳng rửa ráy gì cả, bọn bìm bịp sặc rượu giãy chết. Một lúc sau thấy chúng nằm im trong bình.

     Một rổ giá đỗ thật to, rồi thịt bò, thịt dê bà dõng dạc nói:

     - Hôm nay không ăn gạo lứt nữa, xào thịt dê sả ớt tý ông mang đi. Ông dạo này ít nói, vẻ mặt như đang suy nghĩ điều gì bí ẩn. Ông hay đứng trước gương vuốt tóc cười một mình. Vừa thấy bà lên ông nói:

     - Xong chưa? Để tôi còn đi. Bà vội vàng hét toáng em ô - xin. Em í lại bảo khách:

     - Chú chờ cháu tý nha.

     Cứ như thế hết tháng, hết năm, Tết này rồi đến Tết khác bà thấy ông càng ngày càng kiệm lời, lại hay cáu bẳn. Lúc lên giường, cái mền chăn mỏng ông quấn chặt lấy người, trời rét cũng như trời nóng. Bà sợ ông ốm, thỉnh thoảng lại sờ trán xem ông có sốt không. Lạ thật vẫn béo tốt. Sao thế nhỉ? Bà gỡ nhẹ chăn định nằm cùng ông cho tình cảm. Bận làm bận ăn, cũng lâu lắm chẳng thấy ông hỏi han gì. Ông giật thót:

     - Bà lạ nhỉ, tôi có sốt xiếc gì đâu, bà xê ra. Không chịu được, ồi dào!

     Bao nhiêu tủi hờn trào ngược ra gối. Đêm không ngủ được, bà tìm cái điện thoại của ông. À thôi! Mình có biết dùng cái điện thoại cứ gạch gạch, chấm chấm này đâu. Khổ! Rồi bà lẩm bẩm… nhanh như có ai chỉ đường mách lối, bà lục tìm được cái hoá đơn thanh toán tiền điện thoại có tới đến hai triệu đồng. Bà đọc rõ họ tên cô… Sâu trong ngăn cặp còn có một sổ tiết kiệm và một sổ đỏ với giá trị cái nhà thật khủng cũng mang tên cô ấy. Bà giật mình. Té ra những món ngon, những miếng thịt dê, những giá đỗ và rượu bìm bịp… Bà chăm sóc cho ông phí công toi! Công dung ngôn hạnh ư? Hoá ra thừa! Thì ra là những buổi ông vắng nhà không lý do gì đều có lý do cả. Thảo nào! Có khi thậm chí gần cả tháng ông bảo phải đi công tác, phải tiếp khách ở xa. Đêm đêm bà vẫn thấy ông ngủ cứ nghiến răng kèn kẹt, ú ớ lảm nhảm nhắc tên cô ấy.

     Bà thất vọng! Rồi thì bà cũng tìm được đến cái địa chỉ mà bà vô tình tìm thấy khi ông chưa kịp mang đến cho người tình. Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy một đứa bé trai chừng 7 – 8 tuổi, lén nhìn thật lâu xem trên khuôn mặt nó có hình dáng gì giống ông nhà không. Nhưng lẫn lộn cái nét mặt trẻ kia, đang ngồi kia chải chuốt, phấn son loè loẹt trong ngôi nhà chồng mình sắm sửa. Bà chợt nghĩ ra… thằng bé… rồi bà cũng nhờ người lấy được vật chứng thử ADN, và người ta đã trả lời thằng bé cùng huyết thống.

    Đang sắp chết chìm trong căn nhà khô khốc, bà quờ tay ra sau lưng áo mình, mồ hôi có thể vắt ra thành nước. Bà buồn đến cháy ruột, bà bảo em í đóng cửa sớm rồi đèo em í ra bãi sông Hồng. Bà lang thang trong ruộng ngô thẳng tắp xanh rờn, đầy những bắp đang ngậm những chùm râu dài thoảng thơm man mát. Gió sông se lạnh cảm giác bị bỏ rơi làm bà chững lại, ngồi phệt xuống ruộng ngô hít thở cái mùi quen. Như nhớ ra điều gì bà nâng niu một cây rau muối núp trong ruộng ngô, nó đang phủ lên mình một thứ phấn đẹp lạ lùng. Nhớ ngày xưa trong ruộng ngô này, bà và ông có khác gì Chí Phèo Thị Nở. Em í thấy vậy cũng buồn theo rồi buột hỏi:

     - Chị ơi! Chị mất gì trong ruộng ngô đấy?

     - Chị mất hết cả rồi! Những cây ngô này đẹp đấy, bắp đều đấy. Rồi đến lúc họ sẽ chặt đi. Cái hoa đực sẽ tìm cái hoa cái khác thụ phấn.

     Bà gầy đi trông thấy, ít nói không đùa với khách nữa, không hạch xách ngon hay không ngon khi em pha phách. Rồi chẳng rủ em, một mình bà xuống bãi. Cái túi nhẹ tênh bên mình, bà lững thững đến gần mép sông. Một đám bèo Tây tim tím đang trôi lững lờ, người ta còn gọi loại hoa này là hoa lục bình. Bà giơ tay ra với cái màu tím của mình. Đất bờ sông mấy hôm nay mưa nhiều, bên lở đang lở. Bà trượt chân và cuốn theo dòng nước trong chiều hoàng hôn đệnh mệnh.

 

                                                  Minh Hiền

 

 


 

 Lời bình: Của Nghiêm Thản   

 PHẬN ĐÀN BÀ

 

     Từ thuở hồng hoang, thời “mẫu hệ” người đàn bà có uy quyền. Trải qua các thời kỳ tiến hóa của loài người từ 0.0 con người sống bầy đàn nguyên thủy, đến 1.0 con người đã tìm ra được lửa, cho đến 2.0 con người sáng chế ra động cơ hơi nước, rồi 3.0 con người lại phát minh ra động cơ điện, và bây giờ là 4.0 thời kỳ công nghệ thông tin hiện đại. Cứ thế dần dần người đàn bà đã bị thoái vị. Uy lực và quyền hành chuyển sang người đàn ông, đó là “mẫu hệ”. Và thân phận người đàn bà đuối dần có khi trở nên bất hạnh.

     Truyện ngắn “Ghi ở bãi giữa sông Hồng” của Minh Hiền đã ghi lại như một lát cắt của xã hội. Một truyện ngắn viết theo một tư duy mới, như một hồi ký mà không phải hồi ký, như tản văn mà không phải tản văn. Chỉ 3 nhân vật. nhân vật chính không có tên, chỉ một nhân vật có tên lại là nhân vật phụ. Tác giả đã dựng lên một bi kịch nhưng lại hé mở đến tương lai của thế hệ sau. Một tác phẩm đầy tính tư tưởng viết về người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương: "Đau đớn thay thân phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du (Truyện Kiều) giống như một điệp khúc bi thảm. Chả thế mà xưa chị em miền núi lại than rằng: "Thân em chỉ là thân con bọ ngựa, chao chược mà thôi!", còn chị em miền xuôi lại than mình như “con ong cái kiến”. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, trong "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương, trong “Truyền Kì mạn lục”, đặc biệt là trong “Độc Tiểu Thanh Ký” (Nguyễn Du), các đoạn trích “Chinh Phụ Ngâm” (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm) và “Cung Oán Ngâm” (Nguyễn Gia Thiều), nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, truyện ngắn “Thân phận đàn bà” của Y Mùi…

     Truyện ngắn “Ghi ở bãi giữa sông Hồng” được xây dựng nhân vật duy nhất chỉ em ô - sin là có tên Mây. Một cái tên đầy nữ tính. Mây thì phải lang thang. Nhưng em Mây lại không lang thang suốt trên dưới 20 năm vẫn trụ ở một quán café, không lấy chồng. Cộng với cách tả một nhân vật: “Cái quần lửng bó chặt đùi như hai cột đình, lòi ra đoạn chân ngắn tũn. Cái áo có vẻ rộng dài có vẻ rộng dài lùng bùng trùm mông màu cháo lòng, sao ngày nào nó cũng giống nhau thế. Nếu là tôi phải đánh số mới phân biệt được. Được cái hay cười, mái tóc xanh đen như gỗ mun, lại còn buộc cong tớn lên như người chuẩn bị đi mổ lợn. Khiếp! Người đâu mà cổ lỗ sĩ thế không biết. Ra Hà Nội có dễ phải trên dưới 20 năm mà chả thấy thay đổi gì” cũng đã nói được phần nào của nhân vật. Chứng tỏ Minh Hiền muốn cho ta thấy một người đàn bà vụng về bất tài độ hiếm không cao, năng lực kém cỏi thì số phận hèn muộn là thế. Những đức tính thật thà ngoan ngoãn: “Bà rất bằng lòng với cô ô - sin của mình, tuy có xấu xấu một tí, chậm chạp một tí nhưng được cái thật thà. Thi thoảng khách rơi tiền nhặt được còn mang trả”, cũng không cứu được số phận một người đàn bà.

     Trong truyện nhân vật chính là bà chủ quán café, được Minh Hiền xây dựng là một người đàn bà: Bà cao cao, hơi mập kể ra thì thân hình cũng cân đối. Dường như bà bằng lòng với cái thân hình của mình. Thỉnh thoảng bà cũng cân chỉnh chế độ nọ chế độ kia. Ôi giời! Gày được vài hôm thì béo bảy tháng. Còn tính nết thì sao? Tác giả xây dựng một người phụ nữ rất Việt Nam tôi chưa dám nói đến tứ đức “công dung ngôn hạnh” nhưng biết bổn phận làm vợ, lo lắng cho chồng chiều chồng hết mực: “Hôm nay thật lạ bà đi chợ mua về một xâu bìm bịp đen xì. Chẳng biết nghe ai! Bà bảo em ô - xin đổ rượu vào bình rồi thả từng con vào”, “Hôm nay không ăn gạo lứt nữa, xào thịt dê sả ớt tý ông mang đi”. Mặc dù tuổi đã xế chiều nhưng vẫn tình cảm biết sưởi ấm giữ gìn hạnh phúc của vợ chồng: “Bà sợ ông ốm, thỉnh thoảng lại sờ trán xem ông có sốt không. Lạ thật vẫn béo tốt. Sao thế nhỉ? Bà gỡ nhẹ chăn định nằm cùng ông cho tình cảm. Bận làm bận ăn, cũng lâu lắm chẳng thấy ông hỏi han gì”. 

     Để đáp lại cái phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam nhà thơ Minh Hiền lại xây dựng nhân vật phụ là ông chồng bà chủ. Một người đàn ông lạnh lùng: “Lúc lên giường, cái mền chăn mỏng ông quấn chặt lấy người, trời rét cũng như trời nóng”,  “Bà lạ nhỉ, tôi có sốt xiếc gì đâu, bà xê ra. Không chịu được, ồi dào!”. Một con người chỉ biết sống theo bản năng của đàn ông không hề có một chút nhân cách: “Đêm đêm bà vẫn thấy ông ngủ cứ nghiến răng kèn kẹt, ú ớ lảm nhảm nhắc tên cô ấy”. Như một con công chỉ biết xòe đuôi khoe mẽ, múa may, sĩ diện, cố thể hiện mình để chinh phục bạn tình: “Ông là giáo sư tiến sĩ gì gì, giảng dậy ở một trường đại học có tiếng ở Hà Nội. Ông có chiếc xe bốn chỗ màu trắng tự lái lấy rất oai”,Già rồi! Chân tay yếu ớt chậm chạp, mắt mũi kèm nhèm, vẫn cố lái chỉ để giải quyết khâu oai”. Minh Hiền rất khéo léo khi xây dựng nhân vật qua ngoại hình để nói đến tính cách một con người: “Ông nhà cũng oách lắm. Phải cái hơi lùn, nghe đâu cũng chịu khó tập xà mà chẳng khá lên được”.

     Truyện ngắn chỉ 2 nhân vật phụ và 1 nhân vật chính. Cả 2 nhân vật phụ đều là điểm tựa để kích nhân vật chính và cốt truyện lên đến cao trào. Có nhân vật Mây mới thấy cái hiền hòa đôn hậu của nhân vật bà chủ rõ nét hơn. Có nhân vật mất nhân cách chỉ có bản năng của đàn ông mới thấy phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt nam. Chung thủy, nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng miễn sao giữ được hạnh phúc gia đình. Nhưng số phận thật trớ trêu: “Đang sắp chết chìm trong căn nhà khô khốc, bà quờ tay ra sau lưng áo mình, mồ hôi có thể vắt ra thành nước” khi nhìn thấy cảnh “Bà ngạc nhiên khi nhìn thấy một đứa bé trai chừng 7 – 8 tuổi, lén nhìn thật lâu xem trên khuôn mặt nó có hình dáng gì giống ông nhà không. Nhưng lẫn lộn cái nét mặt trẻ kia, đang ngồi kia chải chuốt, phấn son loè loẹt trong ngôi nhà chồng mình sắm sửa. Bà chợt nghĩ ra… thằng bé… rồi bà cũng nhờ người lấy được vật chứng thử ADN, và người ta đã trả lời thằng bé cùng huyết thống”. Minh Hiền để cho nhân vật của mình, khi tuyệt vọng vẫn cố đi tìm những gì mình đã mất. đó là tính nhân văn trong truyện.

      Đoạn kết thật tuyệt vời. Tác giả để cho người đàn bà bất hạnh đến phút cuối vẫn đi tìm những kỷ niệm cũ: “Như nhớ ra điều gì bà nâng niu một cây rau muối núp trong ruộng ngô, nó đang phủ lên mình một thứ phấn đẹp lạ lùng. Nhớ ngày xưa trong ruộng ngô này, bà và ông có khác gì Chí Phèo Thị Nở”. Mặc dù trong lúc tuyệt vọng vẫn nghĩ đến mai sau: “Chị mất hết cả rồi! Những cây ngô này đẹp đấy, bắp đều đấy. Rồi đến lúc họ sẽ chặt đi. Cái hoa đực sẽ tìm cái hoa cái khác thụ phấn”. Tác giả vẫn để cho nhân vật chính của mình luyến tiếc cái chung thủy của tình yêu đôi lứa: “Bà giơ tay ra với cái màu tím của mình. Đất bờ sông mấy hôm nay mưa nhiều, bên lở đang lở. Bà trượt chân và cuốn theo dòng nước trong chiều hoàng hôn đệnh mệnh”. Minh Hiền không muốn giết chết nhân vật của mình, chỉ để nhân vật trượt chân như bao vết trượt khác. Còn chết hay không thì để người đọc suy đoán.

                                                   

                                               Nghiêm Thản


 

 

 

 

 

 

 

TƯỢNG GÓA HAY NỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ QUA THI PHẨM “VÔ TRI” CỦA ĐỖ CHIẾN THẮNG

 

VÔ TRI

 

Quảy tiếng gà trưa qua chiều giá lạnh

Gói tia nắng lẻ loi ủ ấm đêm lỡ hẹn

Dế mèn khóc vì rượu tình quá chén

Đêm cử hành tang lễ nỗi mồ côi.

 

Tượng đài góa gió bật tung khuy ngực

Xin hãy phả hồn người cho đá lạnh giọt mắt rơi

Đừng để đá vô tri trói mình quá chặt

Khuếch đại âm thanh đá khóc giống như người.

 

                           25.1.2019. Đỗ Chiến Thắng

Lời bình: Nghiêm Thản

 

Cuộc sống của mỗi con người ai không muốn vuông tròn, ai không mưu cầu hạnh phúc. Nhưng trớ trêu thay có biết bao người không theo được ý nguyện của mình. Chiến tranh, thiên tai, địch họa, dịch dã đã làm cho họ phải ly tán cô đơn, cũng có thể là một cuộc tình lỡ hẹn không thành làm cho người phụ nữ phải sống trong cảnh gối xô chiếu lệch… Bài thơ “Vô tri” của nhà thơ Đỗ Chiến Thắng, hội viên hội nhà văn Hà Nội đã đã khắc họa lại một cuộc tình ngang trái. Mỗi câu thơ như khía vào nỗi đau của người phụ nữ cô đơn. Có người một mảnh tình vắt vai còn không có, thiên chức làm mẹ không được. Đỗ Chiến Thắng là phái mạnh nhưng anh thấu hiểu hết nỗi lòng của người phụ nữ đã từng cô đơn. Bốn câu thơ khổ đầu anh viết đầy tính ước lệ, anh muốn gửi ý thơ của mình vào những câu thơ ảo để tạo ra một văn cảnh nó buồn hơn đẹp hơn éo le hơn. Anh đã dệt nên cảnh buồn đến não ruột, đến quạnh quẽ se sắt lòng:

          Quảy tiếng gà trưa qua chiều giá lạnh

          Gói tia nắng lẻ loi ủ ấm đêm lỡ hẹn

          Dế mèn khóc vì rượu tình quá chén

          Đêm cử hành tang lễ nỗi mồ côi”.

     Chọn tiếng gà cũng là một nghệ thuật, bởi mỗi tiếng gà cất lên trong ngày đều có sắc thái và ý nghĩa riêng của nó. Tiếng gà gáy buổi trưa thường eo óc rất buồn, mà anh lại “quảy” từ “trưa qua chiều” mà chiều lại là một buổi “chiều giá lạnh”. Chứng tỏ Đỗ Chiến dùng từ dùng ý rất chọn lọc. Qua từ “quảy” ta đã thấy cái vất vả rồi, quảy “từ trưa qua chiều”, thời gian trong một ngày là quá nhiều. Nhưng ở đây không phải là thời mà tác giả bắt quảy từ trưa sang chiều, mà là tiếng gà cứ thưa thớt eo óc như sóc vào óc, như chọc vào tâm can “từ trưa qua chiều” của người phụ nữ cô đơn. Vậy thì câu thơ lại càng hay càng thêm thi vị. Đọc đến đây ai cũng muốn làm thơ, bởi thơ là tinh hoa của ngôn ngữ mang tính ước lệ cao quá. Đỗ Chiến Thắng còn phải “gói tia nắng lẻ loi”, một tia mong manh yếu ớt để ủ ấm cả cái đêm giá lạnh. Một trái tim đơn lẻ. Đỗ Chiến Thắng Viết rất ảo mà thật, anh “quảy tiếng gà”, anh “gói tia nắng lẻ loi”. “Quảy, gói” là những động từ ta vẫn dùng hàng ngày nhưng vào thơ anh lại là những mỹ từ, những hình ảnh “tiếng gà, tia nắng lẻ loi” làm cho thơ anh đã thơ lại càng thơ hơn. Những hình ảnh “quảy tiếng gà trưa, gói tia nắng lẻ loi” làm cho người tình đã cô đơn còn cô đơn hơn. Chưa hết, hình ảnh “dế mèn khóc” và “tang lễ mồ côi” càng làm cho khung cảnh buồn đến tê tái. Ở đây ta phát hiện ra một điều thú vị nữa. Tại sao Đỗ Chiến Thắng lại mượn tiếng dế mèn thay cho tiếng người để khóc, trong khi có biết bao tiếng côn trùng khác còn nỉ non hơn, rát ruột hơn. Có phải chăng dế mèn người ta còn phong cho nghệ sĩ vĩ cầm, mà bây giờ lại khóc. Vậy thì câu thơ lại càng ý nghĩa hơn. Chúng ta nhiều đêm nghe tiếng côn trùng rả rích kêu, tiếng mọt giường kèn kẹt, hay tiếng thạch sùng tặc lưỡi, tiếng mưa đêm tý tách… những âm thanh ấy đều làm ta buồn đến nẫu ruột nẫu gan. Bốn câu thơ đẹp mà rất gợi, bắt người đọc phải liên tưởng, phải so sánh đến cuộc đời của mình cuộc đời của người khác. Có thể nói đây là bốn câu thơ tài hoa. Chỉ bốn câu thơ trên cũng đã hoàn chỉnh là một bài thơ nói về tâm trạng buồn tình rất hay rồi. Nhà thơ N.T cũng đã viết về cái cô đơn đáng sợ của người phụ nữ:

                Đêm dài tiếng thở dài hơn

          Đặt tay lên ngực giận hờn tuổi xanh

                                              (Đêm dài)

     Cả đêm gối xô chiếu lệch nghĩ đến cuộc đời cô đơn, nghĩ đến tuổi thanh xuân của mình phải chịu bao nhiêu thiệt thòi… tự tay mình đặt tay lên ngực mình thì giải quyết được điều gì, làm sao mà đánh thức được những miền rung cảm. Ca dao có câu:

                Chàng giờ an phận tốt đôi

          Em đây lỡ lứa mồ côi một mình

      Vậy nên người phụ nữ ngày xưa những đêm cô đơn thường đổ thóc ra xay là vậy. Bốn câu thơ tiếp theo Đỗ Chiến Thắng như thổi hồn vào chị em phụ nữ cô đơn:

   Tượng đài góa gió bật tung khuy ngực

Xin hãy phả hồn người cho đá lạnh giọt mắt rơi

   Đừng để đá vô tri trói mình quá chặt

Khuếch đại âm thanh đá khóc giống như người”

      Huyền thoại đá “Vọng phu” chính là tượng đài của người phụ nữ cô đơn, tất nhiên còn nhiều ý nghĩa khác. Câu thơ của Đỗ Chiến Thắng rất mạnh mẽ, anh như muốn tiếp sức cho chị em, anh hiểu được sức sống đang hừng hực, bầu ngực căng tràn sức sống của người phụ nữ, cần phải bật phá cần phải có một bầu trời riêng cho mình. Dẫu hóa đá cũng phải “bật tung khuy ngực” soải cánh bay tung trời. Và chính nhà thơ Đỗ Chiến Thắng không ai khác đã phả hồn cho họ, “phả hồn cho đá” khuyên họ cứ khóc đi, khóc thật nhiều, cho hả, cho quên đi tất cả, cho hết cô đơn để cuộc đời sang một trang mới tươi đẹp hơn hạnh phúc và ấm áp hơn. “Ngoài trời đã rạng bình minh/ Đã đôi chim sẻ dụ tình đuổi nhau” (đêm dài N.T). Thế thì đừng coi mình như đá vô tri vô giác mà trói mình trong cái vòng kim cô luẩn quẩn kia, hãy nới lỏng tâm hồn ra. Phía chân trời kia đang ửng hồng. Cuộc sống còn nhiều cái đáng yêu và tươi đẹp lắm. Nhà thơ Minh Hiền, cùng là phụ nữ với nhau chị cũng đã chia sẻ bằng những câu thơ đầy nữ tính:

                Lệch mùa trăng sẻ làm đôi

           Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng

                                                   (Lệch)

Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Nữ nhà thơ Minh Hiền không “phả hồn vào đá” cho “đá khóc giống như người” như Đỗ Chiến Thắng mà chị đi tìm những thú vui khác an ủi chia sẻ cùng bạn mình, lệch thì phải kê. Một điều thú vị là chị lấy thơ kê cho bằng. Để rồi ai đó trở thành nhà thơ, và hết những cô đơn, cuộc đời cũng lại sang một trang mới tươi đẹp hơn,

     Bài thơ ngắn chỉ 2 khổ 8 câu giàu hình ảnh, ngôn ngữ và hình ảnh được chọn lọc rất sáng tạo làm lung linh câu chữ, tạo cho câu thơ trở nên đẹp, duyên dáng mà cô đọng súc tích nói nên được nỗi cô đơn bất hạnh của người phụ nữ nhưng lại thổi hồn cho họ mở ra một chân trời mới đầy tính nhân văn, mang tính tư tưởng. đọc bài thơ chị em sẽ tin ở mình hơn bản lĩnh hơn.

 

                                                 Nghiêm Thản

 

 

 “CHỢ QUÊ” HAY TẤM LÒNG NGƯỜI QUÊ CỦA ĐÀO THANH CƯỜM:

 

CHỢ QUÊ

 

      Ba ngàn một mớ gừng cay

Chợ Ba Mươi Tết chân say ngập bùn

      Tiếng mời của mẹ run run

Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu.

 

      Hồn quê chiều nhuộm sắc màu

Người gồng người đội chen nhau vội vàng

      Con mua đã nặng tay mang

Tình con thương mẹ xốn xang nghẹn lời.

 

      Tay cầm năm chục rối bời

Loay hoay đi đổi mấy người gần xa

      Mớ gừng nhổ vội vườn nhà

Mẹ mang đi bán củ già lá non.

 

      Tiền thừa không phải trả con

Xin mừng tuổi mẹ nỗi buồn vơi đi

      Tiền thu ít ỏi mua chi?

Mẹ ơi mẹ sắm được gì đón xuân?

Lời bình của Nghiêm Thản

 

      Chợ” là nơi giao lưu hàng hóa có từ khi loài người biết tự sản xuất ra thứ mình dùng, không riêng gì Việt Nam mà trên khắp toàn cầu. Chợ còn là nơi thể hiện nền văn hóa, sự giàu nghèo, và đặc trưng của mỗi vùng miền khác nhau.

      Viết về “chợ quê” và những người mẹ, các người thơ đã viết rất nhiều và rất nhiều, nếu đem tất cả những bài thơ đã viết mà đặt lên bàn cân có thể lên đến hàng “tấn”, hoặc xếp cao lên có thể “đổ chết người”. Đó là cách nói hài hước nhưng lại là thực tế. Những người cầm bút có lẽ không ai không có một vài bài viết về những miền quê thân thương, về những người mẹ tảo tần một nắng hai sương. Trong tờ Thời báo văn học nghệ thuật tôi bắt gặp bài “Chợ quê” của nữ nhà thơ Đào Thanh Cườm hội viên hội nhà văn Hà Nội. Tác phẩm “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm khác hẳn với rất nhiều bài “Chợ quê” mà tôi đã được đọc. Những tác phẩm ấy thường là giới thiệu những mặt hàng nông sản rất phong phú và không quên nói đến tình người quê mưa nắng dãi dề có nhau. Viết về chợ quê nhà thơ NT cũng cho ta thấy cái giản dị dân dã của người quê:

            “Một ngàn hai mớ rau xanh

      Hai trăm đồng mấy củ hành thơm thơm”

Hoặc:

      “Mặn mà mấy lọ dưa cà

Món ăn dân dã đậm đà tình quê

      Người quê mưa nắng dãi dề

Mớ tôm mớ tép đi về có nhau

      Thắm tình cô bán trầu cau

Vàng hương đủ cả đượm màu thời gian".

     Riêng tác phẩm “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm ta không thấy chị giới thiệu phong phú các mặt hàng nông sản. Độc nhất vô nhị chỉ một mặt hàng, mà lại là “Gừng cay”. Có lẽ câu “Gừng cay muối mặn” đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, ăn sâu vào tâm thức tác giả. “Chợ quê” của Đào Thanh Cườm lại vào Ba Mươi Tết, là ngày năm cùng tháng tận, người bán người mua đã thưa thớt dần dần Vậy nên bài thơ gây nhiều nỗi ám ảnh cho người đọc:

      “Ba ngàn một mớ gừng cay

Chợ Ba Mươi Tết chân say ngập bùn”

      Chị viết trong vô thức hay chị cố tình xếp đặt? Mặt hàng của chị sao không là một thứ nông sản có giá trị mà lại là mớ gừng cay? Phong tục Tết cổ truyền của người Việt chúng ta không biết có từ bao giờ. Ngày Tết có đủ các món đặc biệt làm ra đãi khách vừa ngon vừa độc đáo. Các loại bánh, các món ăn chay, chè kho, chè lam, và nhiều món ăn mặn khác… đều không thể thiếu vị gừng. Gừng cay còn để tẩy uế những thứ đã ô uế vấy bẩn. Còn chế nước tắm cho tượng Phật tượng thánh nơi đình chùa linh thiêng. Gừng cay còn thể hiện cái cay đắng chua chát của của cuộc đời đã từng nếm trải. Vậy nên mới có câu “Gừng càng già càng cay” là vậy. Ca dao có câu:

“Gừng già gừng lại càng cay

Rau răm ở lại gừng bay lên trời

     Chợ Ba Mươi Tết chân say ngập bùn”. Phải chăng tác giả muốn nói đến cái lam lũ, vất vả, tần tảo của người quê. Chưa hết:

“Tiếng mời của mẹ run run

Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu”.

      Đọc câu thơ mà ta thấy ngậm ngùi chua xót. Phải chăng người bán hàng là mẹ mình thì đau biết nhường nào. Ba Mươi Tết là những ngày năm cùng tháng tận. Người mẹ chân tay đã run rẩy còn phải đi bán một mớ gừng, bán được mớ gừng thì giải quyết được cái gì cho ba ngày Tết. Thật vô cùng cám cảnh khiến người đọc muốn rơi nước mắt khi “Ướt loang một vạt mưa phùn áo nâu”. Hình ảnh áo nâu chính là hình ảnh người mẹ. Tuy vậy Đào Thanh Cườm vẫn không quên cái hồn quê của ngày áp Tết vẫn người mua người bán rộn ràng: “Hồn quê chiều nhuộm sắc màu/ Người gồng người đội chen nhau vội vàng/ Con mua đã nặng tay mang/ Tình con thương mẹ xốn xang nghẹn lời”.

     Lời thơ bắt đầu đi vào tự sự như một câu chuyện kể ngày Ba Mươi Tết. Ta bắt gặp nhân vật “con” là một vị khách hàng đã sắm sanh được nhiều thứ “Con Mua đã nặng tay mang” Nhưng vị khách hàng này đang nghĩ gì về người mẹ già run run trong mưa phùn gió rét ngồi bán mớ gừng cỏn con kia. Và vị khách ấy đã mua giùm cho người mẹ nghèo kia. Chắc hẳn trong túi người mẹ bán gừng không một đồng vì thế cho nên:“Tay cầm năm chục rối bời/ Loay hoay đi đổi mấy người gần xa”

      Đọc câu thơ vô cùng ám ảnh, mớ gừng chỉ bán ba ngàn, mà vị khách lại đưa những năm ngàn, tiền đâu mà trả lại đây. Nghèo đến thế thì thôi! Là độc giả đa sầu đa cảm mới thấy câu thơ như cứa vào ruột gan, như nghẹn lại khi người mẹ “Loay hoay đi đổi” tiền. Sự cần tiền trong những ngày Tết vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người đâu phải người mẹ nghèo kia. “Mớ gừng nhổ vội vườn nhà/ Mẹ mang đi bán củ già lá non”. Đọc thoáng qua thôi ta chưa thấy người mẹ cần tiền đến như thế nào. Người mẹ không bán củ không mà bán cả “củ già” lẫn “lá non”, xem ra người mẹ không có còn thứ gì để bán nữa. Trở lại câu chuyện bán mua: “Tiền thừa không phải trả con/ Xin mừng tuổi mẹ nỗi buồn vơi đi”.

     Ở đây ta mới thấy Đào Thanh Cườm đẩy tứ thơ lên đến cao trào, tính nhân văn được nâng lên, chị đã để vị khách hảo tâm kia không lấy lại tiền thừa. Tiền thừa có được là bao nhưng không phải là tiền bố thí, mà là tình thương thực sự, là tấm lòng của người quê bởi “Con mua đã nặng tay mang” đã nhiều rồi, nhưng con vẫn mua giúp mẹ đấy thôi. Tấm lòng của vị khách là “Tình con thương mẹ” đến “nghẹn lời”. Nhưng sự ngậm ngùi của vị khách mới là tấm lòng của người quê: “Tiền thu ít ỏi mua chi?/ Mẹ ơi mẹ sắm được gì đón xuân?”

     Tình quê là vậy. Đã đành rằng “nhiều no ít đủ”. Câu hỏi được đặt ra là sự thông cảm sẻ chia. Thử hỏi rằng tiền bán mớ gừng kia, người mẹ mua được những gì, và người mẹ đã sắm sanh được những gì cho ba ngày Tết, mà người mẹ vẫn mong có tiền để tiêu Tết. Cảnh nghèo của người quê càng ám ảnh vào tâm thức của người đọc. Đó là cách viết rất gợi cảm, bắt độc phải dừng lại để suy nghĩ. Xã hội là vậy. Người nghèo vẫn cứ nghèo, kẻ tham nhũng vẫn cứ tham. Phải chăng Đào Thanh Cườm chạm nhẹ vào những nát cắt của xã hội.

      Với 12 câu lục bát mượt mà đằm thắm nhà thơ Đào Thanh Cườm đã chia sẻ tình quê với mọi người. Chị như đã thấu hiểu được con người nhà quê, và cái tình quê đậm đà đến nhường nào. Cũng giống như cố nhà thơ Nguyễn Bính dù đi khắp mọi miền của Tổ quốc vẫn tha thiết trở về quê, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có tổ tiên mồ mả ông bà ông vải mình. Chúc chị thành công trong lĩnh vực văn chương.

 

                                 Ngày 29.Tết.Nhâm Dần

                                              30.01.2022

                                          Nghiêm Thản

 

 

 

 


 

BÀN VỀ TÍNH “ƯỚC LỆ” TRONG THƠ

 

Phân tích về từ ước lệ:

     Ước lệ là cách quy ước biểu trưng trong biểu hiện nghệ thuật. Hiểu đơn giản, ước lệ là quy ước về chuẩn mực so sánh, ví von, nhân cách hoá giữa các sự vật hiện tượng nhằm tạo ra một cách hiểu chung nào đó trong văn học nghệ thuật và trong đời sống mang tính khái quát. Ước lệ gốc là từ Hán, ta tách ra phân tích từng từ ta thấy:

- Ước : Quy ước, giao ước, hẹn ước, định ước… Lệ : luật lệ, lệ làng, điều lệ, lệ phí… bắt buộc phải theo, ta có từ ước lệ:

- Ước : Ước chừng, ước đoán, khoảng, độ…Lệ : Lệ thường, thể lệ, tiền lệ, thói quen, vẫn thế không thay đổi... . Từ ước lệ ở đây lại có nghĩa: Không được chính xác lắm, khoảng hoặc độ chừng ấy, tương đối, na ná giống nhau, gần gần như thế, đại khái như thế…

Ước lệ thường gắn liền với tượng trưng. Vậy tượng trưng là gì? Tôi không đi sâu vào phân tích từ “tượng trưng” mà chỉ khái quát: Tượng trưng là dùng một hình tượng, hoặc hình ảnh cụ thể để biểu hiện một khái niệm, tư tưởng hoặc tình cảm, con người tương tự. Tượng trưng thường mang tính trừu tượng.

Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

Đèn cao áp như mờ hơn một chút

Thương cây bàng một mình đứng đơn côi

                                   (Hà Nội vào Đông – NT)

      Bốn câu thơ trên, mỗi câu là một hình ảnh, những hình ảnh “Mùi hoa sữa, cỏ công viên sương ướt, đèn cao áp như mờ đi” là những hình ảnh tượng trưng cho mùa đông đã đến, riêng hình ảnh “cây bàng đứng đơn côi” đã tượng trưng cho mùa đông rồi lại tượng trưng cho con người đang đứng một mình đơn lẻ, gợi một nỗi buồn man mác.

      Tính ước lệ tượng trưng trong thơ là bút pháp ước lệ tượng trưng là cách sử dụng những quy ước trong biểu hiện nghệ thuật như dùng hình tượng thiên nhiên đẹp trăng sao, cỏ cây hoa lá, trời mây… nhân cách hóa để nói về vẻ đẹp của con người. Thủ pháp ước lệ tượng trưng nghiêng về gợi cảm, nó sẽ tác động tới người đọc thông qua sự thẩm bình ngữ nghĩa, ngôn từ, và trí tưởng tượng để biến hình ảnh thành hình tượng, có thể đa chiều, đa dạng của người đọc. Không cụ thể, mang tính khái quát mà vẫn logic chứ không miêu tả cụ thể tỉ mỉ, người đọc hiểu được ý biểu cảm của mình tuy trừu tượng mà không bắt bẻ được, tưởng sai mà đúng như câu thơ của Dương Tùng Giang tưởng vô lý mà có lý:

      Tôi ngước nhìn bầu trời tím biếc

      Đi tìm thi vị cuộc đời trong những giọt

mưa xuân

      Hình ảnh “bầu trời tím biếc” đồng nghĩa với xanh như lơ, thì tìm đâu ra “giọt mưa xuân” để mà tìm ra cái thi vị của cuộc đời. Như vậy rõ ràng là câu thơ viết vô lý. Nhưng lại có lý vì câu thơ lại nằm trong văn cảnh của một tứ thơ viết về người lính bị chất độc quái quỷ “màu da cam” chết người, làm cho người lính phải chịu khổ đau luôn luôn khao khát được hạnh phúc như bao người khác. Giống như những người lính biển sông giữa đại dương mênh mông nước mà vẫn khát thèm nước ngọt, nhưng tìm đâu ra. Vậy thì Dương Tùng Giang anh ngửa mặt kêu trời để trời cứu, chứ đâu phải ngắm cái đẹp của bầu trời tím biếc xanh như lơ đẹp đến lung linh tuyệt vời kia. Thế thì câu thơ lại là có lý.

      Nhà thơ Minh Hiền dùng thủ pháp ước lệ biểu cảm về tình cảm con người chị lấy hình ảnh gió, mây để viết: “ Ngúng nguẩy gió,/ Thủng thẳng gió,/ Gió có phẳng đâu,/ Vốc một vốc sương ném vào mây…”. Gió là vật vô tri vô giác ta còn không nhìn thấy được, nhưng lại có tình cảm sâu sắc làm cho câu thơ không sáo, dễ hiểu, rất gợi, mà không là đánh đố người đọc. Sương thì ai mà vốc được, nhưng lại rất logic, bởi nó đã vượt xa cái bình thường của ngôn ngữ trong thơ.

      Với những hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc không mỹ từ, nhưng Nguyễn Du đã chọn lọc một cách tài tình miêu tả được những bức chân dung với nhiều vẻ đẹp khác nhau để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Khi tả chị em Thuý Kiều:

      Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.

      Dáng vẻ của họ thanh tú như cây mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Tả Thuý Vân: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Qua nhiều hình ảnh ước lệ “khuôn trăng”, nét ngài” hay “ngọc”, “mây”, “tuyết” ta không kể hết được tỉ mỉ nhan sắc Thuý Vân nhưng ta biết được nhan sắc ấy rất tuyệt trần. Vẻ đẹp “trang trọng, đầy đặn” “nở nang, đoan trang”, “mây thua, tuyết nhường” luôn tạo cho mọi người xung quanh một tình cảm yêu mến, độ lượng. Vân hiện lên với chân dung một cô gái đoan trang, phúc hậu. Tả Thuý Kiều: “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Nguyễn Du cũng dùng những hình ảnh ước lệ quen thuộc “làn Thu thuỷ”, “nét Xuân sơn” để chỉ ánh mắt, lông mày. Tuy vậy với những hình ảnh “hoa ghen, liễu hờn” nhà thơ đã cho thấy nhan sắc Thuý Kiều thuộc loại nhan sắc độc đáo kỳ lạ, vượt lên sự bình thường. Vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà”. Nhiều người như nhà thơ Thanh Long lại thẩm thơ một cách máy móc cho rằng Nguyễn Du tả như thế thì Thúy Vân xấu chứ không đẹp. Bởi với cái mặt tròn như “khuôn trăng” lại có đôi lông mày như con ngài thi to quá. Hoặc câu: “Tà tà bóng ngả về Tây” tưởng như vô lý, nếu ta không hiểu hết tính ước lệ trong thơ, mà soi mói rằng bóng thì phải ngả về Đông mới là logic, lại hoá ra Nguyễn Du viết không logic.

      Nhà thơ Đỗ Chiến Thắng viết bài “Hồ Gươm Thu” câu mở đầu: “Cành lộc vừng lả ngọn xuống hồ Gươm” là viết theo thủ pháp ước lệ nhưng nhà thơ Văn Chương lại cho là không thực tế bởi cây lộc vừng không có ngọn. Vậy nên người thẩm thấu thơ phải hiểu hết được tính ước lệ trong thơ. Ngược lại người viết thơ cũng phải biết được tính logic trong thơ để tìm tòi những ngôn ngữ phù hợp hài hoà làm cho người đọc phải chấp nhận. Ngoài đời làm gì có “lá diêu bông”, Hoàng Cầm anh nặn ra mà độc giả phải chập nhận đấy thôi.

      Trong văn học nghệ thuật, ước lệ là sự hiện thực hoá trong sáng tạo thẩm mĩ khả năng biểu đạt cùng một nội dung của nhiều hệ thống hình ảnh bằng những phương tiện cấu trúc khác nhau. Chỉ nên nói về tính ước lệ trong tác phẩm ở mức mà nhìn chung và khái quát. Chúng ta có thể nói về ngữ nghĩa của các hệ thống hình ảnh hoặc ký tự được sử dụng trong trong thơ.

Có lẽ sử dụng thuật ngữ “hình thức hoá” sẽ phù hợp hơn với nơi mà chủ yếu chỉ có thể bàn về chuyện cú pháp trừu tượng. Một hệ thống biểu đạt mang đặc tính ngữ nghĩa thường được sử dụng trong tác phẩm nếu có sự tự do rõ nét so với đối tượng được biểu đạt, thì điều đó sẽ cho phép ta nói về tính ước lệ tượng trưng của nó. Hệ thống ấy tất yếu sẽ áp đặt lên nội dung chuyển tải những quy định mà người thẩm bình thơ chưa nhận ra. Tương tự như thế, chúng ta sẽ không thấy có gì khác lạ, ta xem một bức tranh trừu tượng người họa sĩ chỉ biểu cảm bằng những nét đơn giản phác thảo, nếu ta đi vào chi tiết cụ thể tỉ mỉ lại thành tranh cãi.

      Tóm lại người viết thơ dùng thủ pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng trừu tượng, cũng phải tuân thủ tính logic trong thơ đừng đi quá xa thì người đọc mới chấp nhận được.

                                                 Nghiêm Thản

MỘT GÓC NHÌN TỪ NGÔN NGỮ TRONG NGHỆ THUẬT VIẾT THƠ

 

      Ngôn ngữ chính là chất liệu tối ưu của người cầm bút, sau những vốn sống, nhà thơ phải lao đọng nghệ thuật chứ không đơn thuần là viết. Từ đó nhà thơ phải gọt rũa nhào nặn thật nhuần nhuyễn, đặt đúng nơi đúng chỗ của nó để tạo nên thi phẩm của mình. Những dòng thơ mới luôn luôn được tiếp cận với các nền văn học của nước ta và mọi miền trên thế giới, nhất là nền văn học phương Tây. Tất cả phải được thẩm định một cách sâu sắc, và sáng tạo mà vẫn giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt, để tiếng Việt của mình luôn được hoàn thiện và phát triển. (Biết những ngôn từ ngoài từ điển tiếng Việt mà vẫn biểu cảm được ý thơ là một sự sáng tạo ngôn ngữ). Sự mã hóa câu thơ đi từ hướng nội sang hướng ngoại, gọi là những câu thơ ảo (ý tại ngôn ngoại) giàu hình ảnh, sắc thái, nhạc điệu là điều cần thiết. Đó chính là khả năng chuyển hóa ngôn ngữ. Từ vựng luôn luôn thay đổi và phát triển theo quy luật tiến hóa của loài người, phát triển của ngôn ngữ. Đó cũng là đặc trưng của ngôn ngữ trong nền văn học nói chung và thơ nói riêng.

      Nếu giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; đường nét, màu sắc là ngôn ngữ của hội họa; hình khối, mảng là ngôn ngữ của kiến trúc, thì ngôn ngữ lại là thứ chất liệu vô cùng quan trọng của văn học. Macxim Gorki đã nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học

     Ngôn ngữ trong mỗi thể loại trong văn học có những đặc điểm riêng của nó, người cầm bút phải biết lấy ngôn ngữ làm cứu cánh.với thơ vị trí của ngôn ngữ cực kì quan trọng. Đó là thứ ngôn ngữ được chắt lọc, chưng cất rất công phu mới có. Cho nên một thi phẩm chính là một tổ chức rất chặt chẽ, cao siêu của ngôn ngữ. Bởi vậy ngôn ngữ thơ luôn được coi trọng vào bậc hàng đầu nó là “Tinh hoa của ngôn ngữ được chắt lọc từ vị đời. Ngôn ngữ thơ là thứ được chứa  đựng phong phú những hàm súc của ngôn ngữ, nó chuyển tải những cảm xúc, hình ảnh, âm thanh, màu sắc, nhạc điệu…tất cả những đặc điểm ấy được quyện vào nhau để ra một thứ đa chiều đa dạng gọi là hình tượng trong thơ.

1. Hình ảnh, tính tượng trưng trong thơ

      Hình ảnh trong thơ bao giờ cũng là sự kết tinh của ngôn ngữ. Hình ảnh sẽ tượng trưng cho con người, và tâm tư tình cảm con người. Thơ tạo dựng một vũ trụ qua trung gian hình ảnh tượng trưng dẫn đến biểu tượng một vũ trụ phi thực, một vũ trụ có ý nghĩa trong tính cách riêng của nó. Hơn đâu hết biểu tượng hình ảnh là điều kiện của thơ, lý do tồn tại của thơ. Hình ảnh tạo ra hình tượng, đi đến nhân cách hóa, đi đến tính ước lệ trong thơ, vượt xa cái bình thường.

    Vậy nên dù là từ tiếng vọng của hồn cốt tâm linh, dù là tiếng gọi của non sông, dù rằng viết trong vô thức…Thơ tồn tại được đều phải dựa vào ngôn ngữ và hình ảnh. Đó là nhưng thi liệu cốt yếu trong thơ. Vậy thì hình ảnh trong thơ không phải là tổng số những hình ảnh mà không nói được điều gì, mà ta phải chắt lọc, chọn lựa để có những hình ảnh chuyển tải được giá trị biểu cảm giàu tính hàm xúc để tạo nên một kết quả nghệ thuật cao, thể hiện được đúng tâm tư tình cảm, và tính sáng tạo của người cầm bút. Ngôn ngữ của thơ không phải là phạm trù của tự nhiên như trong các môn khoa học (1+1=2) mà là diễn đạt bằng hình ảnh dù là cụ thể hay trừu tượng. Ví dụ để diễn tả một khung cảnh tháng ba nhà thơ Minh hiền viết:

Xác hoa gạo bên đường dựng thành một cảnh/ Cánh rụng, đài rơi, thương lắm hoa ơi. (Tháng Ba,với tôi - Minh Hiền)

      Đọc câu thơ ta thấy tác giả không hề nói đến tháng Ba, nhưng ta vẫn biết được đấy là tháng Ba bởi từ “hoa gạo” là hình ảnh của tháng Ba. Những hình ảnh “xác hoa” “cánh rụng đài rơi” lại cho ta cảm thấy một nỗi buồn man mác.

      Có những hình ảnh cụ thể mà rất đẹp làm ta bừng tỉnh dậy “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”(Khương Hữu Dụng)

     Nhà thơ Việt Hồng anh viết về đứa con bị bán sang Trung quốc khi trở về nhưng chỉ được trong chốc lát, anh dùng hình ảnh con cò để nói con mình:

               “Bờ sông mưa bụi lắt lay

         Con cò đậu xuống, rồi bay phương nào!”

     Như vậy hình ảnh “con cò” đã biến thành hình tượng của con gái mình. Khổ thơ đầu của nhà thơ N.T viết về thời tiết giao mùa có 4 câu, mà câu nào cũng có hình ảnh:

      “Mái tóc em thôi vương mùi hoa sữa

       Cỏ công viên sương ướt chỗ mình ngồi

       Đèn cao áp như mờ hơn một chút

       Thương cây bàng một mình đứng đơn côi”.           

                                      (Hà Nội và đông – N T)

      Những hình ảnh “hoa sữa” thôi vương mùi, cỏ công viên “sương ướt”, “đèn cao áp như mờ hơn”,  “cây bàng” đã tượng trưng cho mùa đông đã đến. Và từ hình ảnh “cây bàng” lại hóa thành hình tượng người con gái cô đơn, gợi nên một nỗi buồn man mác trong thơ.

2 - Trong thơ có họa

     Ngôn ngữ của thơ lại mang mầu sắc đó là tính họa trong thơ. Đọc một câu thơ độc giả có thể tưởng tượng ra một bức tranh rất đẹp đó là tính họa trong thơ đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật:

        “Cành liễu đung đưa thả buông thướt

         Em gái Huế tóc dài mát mượt

         Nón chùng quai đầu ngả che mưa

         Cho anh hỏi đường về thôn Vĩ”.

                                           (Mưa Huế N.T)

      Bốn câu thơ là một bức tranh thật sinh động: Đó là một cô gái Huế “tóc dài mát mượt”, “nón chùng quai” rất điệu đà đứng bên bờ sông hương thật thơ mộng, có “cành liễu đung đưa thả buông thướt” tha bên bờ. Bên cạnh đó là một chàng trai thanh lịch đang hỏi đường.

      Nhà thơ Tố Hữu viết về bốn mùa ở Việt Bắc bằng những ngôn ngữ giàu tính họa như một bức tranh tứ quí:

               “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

         Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

               Ngày xuân mơ nở trắng rừng

         Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

 

               Ve kêu rừng phách đổ vàng

         Nhớ cô em gái hái măng một mình

               Rừng thu trăng rọi hòa bình

         Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

                                                    (Tố Hữu)

      Nhưng hình ảnh tả thực “hoa chuối đỏ tươi”, trên đèo có “ánh nắng” vàng rực rỡ trong ngày xuân có “hoa mơ nở trắng rừng” có cố gái hái măng dao gài thắt lưng… Tố hữu đã vẽ nên một bức tranh bằng thơ thật đẹp của núi rừng Tây Bắc

3 – Tính nhạc trong thơ

      Nói đến thơ là ta nói đến giai điệu của ngôn ngữ. đó chính là nhịp điệu của câu chữ, sự phối thanh bằng trắc. Một bài thơ nếu không có giai điệu thì bài thơ ấy trở thành lủng củng. trở thành văn xuôi mất rồi. Vậy nên giai điệu trong thơ là một điều tối cần thiết. Giai điệu của ngôn ngữ đó chính là thơ đã có nhạc. Có những bài thơ đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật khi đọc ta cảm thấy như có tiếng chim hót véo von, tiếng suối chảy róc rách, hay những bản hùng ca mạnh mẽ, những bản tình ca êm dịu, thấy biển ồn ào… Để nói nên những âm thanh ngọt ngào của nàng kiều khi gảy đàn cho Kim Trọng nghe Nguyễn Du viết:

               “Trong như tiếng hạc bay qua

         Đục như nước suối mới sa nửa vời

               Tiếng khoan như gió thoảng ngoài

         Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”

      Các thi sĩ dùng ngôn ngữ thơ để phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Khi yêu nhạc điệu của ngôn ngữ cũng theo nhịp đập của con tim, khi thì nồng nàn, khi thì thổn thức thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu cảm bằng ý nghĩa của ngôn từ mà còn bằng những âm thanh và nhịp điệu của ngôn ngữ. Có thế xem tính nhạc trong ngôn ngữ thơ là nét đặc thù cơ bản. Nhạc tính trong thơ còn mang tính duyên thầm làm đẹp câu thơ, tạo nên cái mỹ cảm cho người đọc và người nghe. “ly khai với nhạc tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên” (Tam Ích). Thơ là sự phối hợp rất đồng điệu của âm thanh, là sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và ý. Chế Lan Viên nói: “Rơi vào vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người, nhưng nông cạn”. Tóm lại ngôn ngữ trong thơ giàu nhịp điệu, phong phú về cách hòa âm, tiết tấu, giàu từ láy âm, giàu hình tượng, chính là thứ ngôn ngữ mang tính nhạc, mà trong thơ không thể thiếu được. Đó cũng là những yếu tố cắt nhịp, gieo vần phối thanh bằng trắc. Có những câu thơ không vần nhưng phối thanh tốt khi đọc vẫn có giai điệu ngọt ngào:

         “Thu Hà Nội Hồ Tây gợn sóng

          Huế sông Hương như dải lụa mềm

          Mái chèo đưa nhẹ tan ánh bạc

          Du khách đường xa có nhớ nhà”.

                        (Đến Điện Hòn Chén - N.T)

      Hiện nay các nhà thơ lại đi sâu vào thơ hiện đại tự do không vần, thơ văn xuôi. Nhưng cách phối thanh bằng trắc rất hài hòa nên đọc vẫn mượt mà êm dịu. đó chính là cách sáng tạo trong văn học nghệ thuật:

“Anh đi rồi

mang hun hút mùa thu

Em như con chuồn chuồn

trong ao không tìm ra cọc đậu

Lá vàng quay đỏ gió

lấn lá màu anh”.

         (Hun hút mùa thu – Minh Hiền

4 – Ngôn ngữ so sánh, liên tưởng trong thơ

      Cách so sánh trong thơ cũng là một nghê thuật, từ những vế tiểu đối nó nâng chất lượng câu thơ lên rất nhiều. Có nhiều cách so sánh, so sánh thực tế, so sánh thực tế với trìu tượng, so sánh trìu tượng v.v…Còn có nhà thơ so sánh từ thị giác sang thính giác “Tóc em dài như tiếng chuông ngân”. Với Trần Đăng Khoa anh lại so sánh từ cảm nhận sang thị giác

               “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa

         Tiếng rơi rất nhẹ như là rơi nghiêng

      Để có những ngôn ngữ độc đáo để so sánh thì người cầm bút phải giàu ngôn ngữ, phải sáng tạo (có thể dùng những từ ngoài từ điển tiếng Việt, nhưng phải biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt). Cách so sánh ẩn dụ, hoán dụ, dùng điệp từ, điệp ngữ, nhân cách hoá, tượng trưng, nói quá, nói giảm…đều cần phải biết vận dụng trong thơ. Một cách so sánh trực tiếp mà gợi nên sự liên tưởng sâu sắc, rộng mở

         “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

         Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

         Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

         Tình yêu thành đất lạ hóa quê hương”.

                                             (Tiếng hát con tàu)

      Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trìu tượng là tình yêu thành những hình ảnh thân quen gần gũi với con ngời miền sơn cước. Có cái so sánh rất ảo mà rất thật, khiến ai cũng phải liên tưởng đến cuộc đời mình:

         Vô tình tôi đứng trước gương

  Thấy người trong ấy đáng thương hơn mình”

                                                          (Say N.T)

      Với Tố Hữu ông so sánh cái nhỏ với cái lớn mà rất thật và đẹp “mái tóc em là mây hay là suối”. Ta cũng có thể bắt gặp sự so sánh ví von tạo hình độc đáo trong thơ Xuân Diệu: “Tháng giêng ngon như một cặp môi hồng, Lá liễu dài như một nét mi, Mây đa tình như thi sĩ ngày xưa, Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ, Mà tình yêu như quán trọ ven đường…”. Còn với đại thi hào Nguyễn Du thì trên cả tuyệt vời:

                 “Làn thu thủy, nét xuân sơn

           Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.

5 – Tính hướng nội, hướng ngoại của ngôn ngữ trong thơ

     Khác với văn xuôi, thơ chỉ dùng một số ít ngôn ngữ mà vẫn chuyển tải được hết tâm tư tình cảm của tác giả. Nói ít mà hiểu nhiều, nói xa mà hiểu gần, nói gần mà hiểu xa. (ý tại ngôn ngoại) hay nói cách khác phải biết nén từng câu chữ, phải mã hóa câu thơ để có một ngôn ngữ mới, mang tính đa chiều đa dạng, mà không phải nói dài kể nể tỉ mỉ người đọc vẫn hiểu được “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu xa thì mới hay, không phải bất bất cứ điều gì phải nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá trị. Ý hết mà lời dừng là cái lời hết mực, nhưng lời dừng mà ý chưa hết thì lại càng hay” (Hải Thượng Lãn Ông) .

     Trong dân gian ông cha ta thường mượn hình ảnh trăng hoa để nói con người, đó chính là tính hướng ngoại để miêu tả cái thực tế một cách bóng gió, xa xôi mà tế nhị:

              “Trăm hoa đua nở mùa Xuân

          Cớ sao cúc lại muộn mằn tiết Thu.

 

               Vì hoa tham lấy sắc vàng

          Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu”

                                                    (Ca dao)

Với Xuân Diệu ông dẫn độc giả đi ngoài vào trong, đi từ thiên nhiên đến tình yêu đôi lứa:

        “Mặt trời vừa mới cưới trời xanh

         Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành

         Son sẻ trời như mười sáu tuổi

         Má hồng phơn phớt, mắt long lanh” .

       Trong thơ ngôn ngữ hướng nội nhiều khi tác giả nói thật ngay tâm trạng của mình như muốn giãi bày, muốn chia sẻ với mọi người. Đó cũng là một dạng thơ mặt phẳng. nhưng những ngôn ngữ phải được đặt đúng chỗ của nó thì lại lôi kéo được tình cảm của độc giả:  Anh yêu em âm thầm không hy vọn/ Lúc rụt rè khi hậm hực lòng ghen” (Puskin).

      Đặc tính hướng nội và hướng ngoại trong ngôn ngữ thơ rất cần thiết, bởi những dòng thơ theo chiều mặt phẳng (nghĩ gì viết lấy) thì nó mất đi phần thi vị, không còn chỗ để độc giả suy ngẫm, không còn chỗ cho mọi người bình.Vậy câu thơ không còn thấy thú vị nữa. Câu thơ kết hợp được tính hướng nội và ngoại một cách hài hòa thì thật thú vị:

             “Trong đầm gì đẹp bằng sen

       Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

             Nhụy vàng bông trắng lá xanh

       Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

                                                  (Ca dao)

       Rõ ràng là tác giả đi từ ngoài vào đến trong, rồi lại đi từ trong ra ngoài. Đi từ lá xanh đến bông trắng, từ bông trắng tới nhụy vàng, rồi lại từ trong ra ngoài, từ nhụy vàng ra bông trắng, rồi đến lá xanh. Tính hướng nội và hướng ngoại của câu thơ được kết hợp nhuần nhuyễn làm cho bông hoa đã đẹp còn đẹp hơn, bởi nó đã chứng minh cho bông sen đẹp, rất trong trắng và tinh khiết. Có những ngôn từ hướng nội làm ta liên tưởng tới bản chất con người mặc dù những ngôn ngữ ấy rất ảo:“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”chỉ cần một từ “t” thôi ta đã thấy Nguyên Du ác khấu đến mức nào. Và cũng từ, từ “nghé” trong câu “Khách đà lên ngựa người còn nghé theo”. “Nghé” chứ không phải là “ghé”. Hai từ đồng âm đồng nghĩa như từ “nghé” thì ta thấy nàng Kiều rất đoan trang, hào hoa phong nhã, như đã thể hiện được tứ đức công, dung, ngôn, hạnh của người con gái. Vậy thì ở đây cụ Nguyễn Du lại rất thơm mồm.

      Nhà thơ Minh Hiền đi từ cái ảo hướng ngoại là những hình ảnh của tháng năm để thể hiện tình cảm của mình, hướng nội thật khéo:

“Tháng năm gắt gao nắng lửa

Phượng hồng lên thuở chơi vơi

Bằng lăng tím đầy nỗi nhớ

Những bông gòn rơi rơi”.

      Cho nên sự lựa chọn ngôn ngữ trong thơ để từ hướng nội sang hướng ngoại, từ hướng ngoại sang hướng nội, từ cái cụ thể sang cái ảo, hoặc từ cái ảo sang cái cụ thể là cả một sự lao động nghệ thuật, lại là rất quan trọng.

6 – Tính láy lại và cắt nhịp trong ngôn ngữ thơ

   Tính chất láy lại trong thơ để trở thành những điệp khúc trong thơ cũng rất cần thiết. Khi ngôn ngữ được lập lại thì tính nhạc trong ngôn ngữ thơ được tăng lên. Nếu diễn tả câu thơ buồn thì được buồn thêm, khi vui sẽ vui hơn, và lúc mạnh mẽ sẽ cao trào hơn :

                “Khi chén rượi, khi cuộc cờ

         Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”

                                                    (Kiều N D)

     Ở đây ta gặp 4 từ “khi” chứng tỏ rằng những con người hào hoa phong nhã họ không thiếu gì những thú vui lành mạnh. Ta còn thấy câu đầu cắt nhịp 3 - 3 mặc dù câu thơ sai luật (câu 2 phải là bằng, câu 4 phải là trắc) nhưng khi đọc ta vẫn thấy êm êm. Nếu không cắt nhip được, hoặc cắt nhip khác khi đọc ta sẽ thấy ngang ngang. Như câu thơ của Nguyễn Bính “Hôm qua em đi tỉnh về”, bởi chữ “đi” rơi vào chữ thứ 4 theo luật phải là trắc. Vậy nên cắt nhịp ngôn ngữ trong thơ cũng rất quan trọng. Kể cả trong thơ tự do truyền thống nếu ta cắt nhịp không đúng cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tính nhạc trong thơ. Trong thơ hiện đại, thơ văn xuôi không vần ngắt nhịp lại rất cần thiết, nếu ta ngắt nhịp đúng chỗ thi giai điệu bài thơ sẽ rất uyển chuyển, êm ái, người nghe vẫn tưởng như thơ truyền thống, mặc dù câu thơ dài tới mấy chục từ, thí dụ:

“Giữa Trường Sơn

chân con bước đến mòn đá núi

mẹ ở đâu mà con tìm mãi không ra

chỉ thấy cỏ dại và mùi thơm hoa lá

khói nhang cuộn bay, cay mắt lệ nhòa”.

                               (Tìm mộ mẹ - N.T)

       Một thi phẩm hay bao giờ cũng là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn kỳ diệu giữa ý nghĩa, âm thanh sắc màu, hình ảnh, chữ và nghĩa một cách chặt chẽ. Tất cả phải hòa quyện với nhau như hình với bóng một cách. Thơ không phải là một mớ ngôn ngữ lý thuyết lộn xộn, mà phải là một thực thể ngôn ngữ đã được gọt rũa, chưng cất, để thành một thứ tinh hoa của ngôn ngữ. Thơ làm ám ảnh lòng người cũng vì vẻ đẹp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ bao gìờ cũng là hóa công của người cầm bút.                                                     

                                                   Nghiêm Thản

BÀN VỀ SỰ “CÁCH TÂN” TRONG THƠ LỤC BÁT

Trước tiên tôi muốn phân tích từ: “Cách tân”.

Ta tách hai từ ra để hiểu nghĩa từng chữ:

- Cách: Theo nghĩa Hán nôm Nghĩa là: Cách thức, Phương pháp, khuôn mẫu…

- Tân: Theo nghĩa Hán Nôm Nghĩa là mới mẻ, đổi cũ…

Ta ghép lại với nhau thành một ngữ: “Cách tân”: Ta có thể hiểu là: “Phương pháp làm mới mẻ”. Vậy thì không cứ phải trong lĩnh vực văn chương, mà trong tất cả mọi vấn đề, mọi lĩnh vực, mọi cái… Ta đều có thể chuyển đổi làm mới lên được, đó cũng là sự sáng tạo, cải tiến, cách tân, hay còn gọi là phá cách. Ngôn ngữ là tiếng nói đời thường của cả cộng đồng cũng cần phải thay mới đổi cũ để phù hợp với trào lưu của xã hội chúng ta không thể mãi giậm chân tại chỗ được. Với văn chương lại cần phải cách tân rất nhiều, nhất là thơ. Vì đó là tinh hoa của ngôn ngữ được chắt lọc từ vị đời.

Nền văn học của Việt Nam chúng ta chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn học nước ngoài. Nói riêng về thơ:

- Trước thế XX chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn của Trung Quốc, nên thơ của chúng ta chủ yếu là thơ Đường luật

- Từ năm 1930 đến 1945 do chịu ảnh hưởng của nền văn học phương Tây nên thơ của các tác giả như Trần Tế Xương, Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi... đã thay đổi rất nhiều. Từ các thể loại thơ Đường đã chuyển hoá thành thơ tự do 7 chữ rồi 8 chữ đến các thể loại không khuôn khổ, câu dài câu ngắn...

- Đầu thập niên 1930, văn hoá Việt Nam diễn ra một cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc cách tân này đi vào lịch sử văn học với tên gọi “Phong trào Thơ mới”.

Phong trào Thơ mới thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà thơ. Thơ mới đã thật sự thắng thế và thơ ca đã bước vào một thời kì mới. Trên thi đàn lần lượt xuất hiện thêm những ngôi sao và Xuân Diệu là biểu tượng rực rỡ nhất cho những sáng tạo của phong trào thơ mới.

Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội... Những nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu.

Ý thức về sự đổi thay, không có gì là vĩnh viễn sẽ dẫn đến một quan niệm khác trong thơ là khẳng định thực tại, khẳng định hiện tại. Bởi lẽ mọi vật, mọi sự đều biến dời, thì cái thực tại và hiện tại có ý nghĩa nhất.

- Từ năm 1945 đến 1975 và cho đến nay thơ tự do của chúng ta được cách tân rất nhiều. Hiện nay chúng ta đã thấy thể loại thơ văn xuôi, thơ không vần đang phát triển.

Trong văn học thời kỳ này, thơ cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân. Thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định. Và họ đã biến cái tôi thành cái ta chung cho mọi người.

Còn thơ lục bát thì cách tân thế nào? Đây mới là sự mạn đàm rất cần thiết. Những năm 60 của thế kỷ trước từng rộ lên sự đòi hỏi cách tân thơ lục bát, có người ủng hộ, người không. Nhà thơ lớn Xuân Diệu thì không đồng ý với sự cách tân thơ lục bát, ông cho câu thơ lục bát đã hoàn chỉnh, đổi mới “chất sống” trong nội dung chứ hình thức câu thơ không nên thay đổi, nó cũng như làn điệu các bài dân ca, đang mượt mà lại như nấc lên từng đoạn, mất hết cái đẹp của câu thơ. Tuy nhiên sự đổi thay của thơ ca nó vừa tuân theo quy luật đời sống vừa theo quy luật của riêng nó…

Trong sự phát triển, thơ đương đại luôn trẻ trung vì đã biết sử dụng tối đa sự phong phú của ngôn ngữ dân tộc - yếu tố thứ nhất của văn học. Nếu thơ tự do ưa dùng một hệ thống ngôn ngữ siêu nghiệm với nhiều kiểu cú pháp mới để thích hợp với lối tư duy phức hợp hậu hiện đại, thì thơ lục bát vẫn giữ cho mình nét mộc mạc, bình dân, với các hình thức chuyển đổi nghĩa bóng bẩy, các lối ví von, cường điệu thường thấy trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, vẫn thiên về các những câu truyền thống mở rộng sự dung nạp mới về ngôn ngữ văn chương trên phương diện từ vựng, dùng nhiều khẩu ngữ, phương ngữ. Trước đây Phạm Đình Toái đã khen ngợi “thơ lục bát hay không tả hết”, ở thất ngôn thì có hình đối lập nhau, giai điệu uyển chuyển của thể thơ này. Cái ưu thế về nhạc tính (nhịp điệu, vần điệu và thanh điệu).

Theo tôi thiển nghĩ các tác giả sợ bài thơ của mình quá ngắn nên cố tình cắt vụn những câu thơ ra để bài thơ được thêm dòng, dài hơn. Nếu nói là để nhấn mạnh câu thơ cho người đọc dễ lại càng không nên. Họ có biết đâu chỉ một cặp lục bát cũng có thể hoàn chỉnh một bài thơ như bài thơ “Mong” của Lê Nghiêm chỉ một cặp lục bát cũng đã hoàn chỉnh rồi:

      Em ơi! Em đã về chưa?

Chim tìm tổ ấm đã thưa, thưa dần!”

Bài thơ chuyển tải được hai yếu tố khác nhau trong tâm trạng mong của người chồng:

1 - Rất thương người vợ tần tảo sớm khuya. Con chim còn biết tìm về tổ ấm mà sao vợ mình còn cố làm thêm, tối trời rồi vẫn chưa về

2 - Rất bực mình có một người vợ hư. Con vật con biết tìm về tổ ấm, mà vợ mình là loại người gì mà tối trời rồi không biết về với chồng với con. Câu thơ có sự so sánh rất tế nhị.

Nữ nhà thơ Minh Hiền có bài thơ “Lệch”:

 

“LỆCH

              

      Sợ rằng đêm vẫn khoác đen

Sợ ngày nắng rát, để duyên cạn mùa

      Sợ mưa bong bóng cứ đùa

Sợ hồn giông bão cứ ùa vào tôi

      Lệch mùa trăng sẻ làm đôi

Lệch anh em thả thơ trôi cho bằng.”

Với 3 cặp lục bát, nếu ta tách từng cặp một, thì mỗi một cặp cũng đã hoàn chỉnh đủ nghĩa, rất phong phú như một bài thơ lục bát 2 câu. Nếu bài thơ này mà cách tân cắt ra từng mẩu, từng mẩu thì liệu có hay hơn được không? Trong khi mạch thơ như hờn như giận, như trách móc theo dòng lục bát rất nhuần nhuyễn và mượt mà. Đất nước Nhật Bản còn có loại thơ “Hai Cư” họ có cắt vụ ra đâu. Nếu Truyện Kiều cụ Nguyễn Du cũng cách tân theo kiểu này nghĩa là “Trăm năm” xuống dòng, “Trong cõi” xuống dòng, “người ta” xuống dòng… Thì không hiểu chuyện gì sẽ sảy ra.

Khi nghe tiếng thơ ta bắt gặp một giọng ngâm lục bát mượt mà, đi vào lòng người ta thấy thi vị biết chừng nào, nhưng nếu ta lại đọc câu thơ đó bằng văn bản mà bị cắt vụn ra thì thương câu thơ lắm vì nó có tội gì đâu, vì thể loại thơ đã bị cách tân thay tên đổi họ từ lục bát sang tự do. Theo tôi những bài thơ lục bát đã bị cách tân như thế thì ta không nên gọi đó là bài thơ lục bát nữa, bởi tác giả đã cách tân thành thể thơ tự do mất rồi.

Người ta cũng thường nhìn chữ đoán người, một bài thơ mà bị cắt vụn ra từng mẩu, độc giả cũng dễ hiểu lầm và đánh giá sai về tác giả là con người vụn vặt, ti tiện, hẹp hòi như những câu thơ. Vậy ta có nên cách tân cho thơ lục bát hay không.

Hơn nữa trên hành tinh này chỉ có nước Việt Nam mới có thể loại thơ lục bát, chúng ta gọi là Quốc thơ. Thế thì tại sao ta không trân trọng giữ gìn một di sản bản sắc văn hoá dân tộc có từ ngàn năm nay.

                                    

                                                      Nghiêm Thản  

 

 

 

                                                                                                                                                                     


 

MỘT CẨM LANG TRONG KHO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM

  

     Trường ca là một thể loại có đóng góp đáng kể vào sự phát triển của tư duy thơ Việt Nam hiện đại. Thế nhưng, sự quan tâm đến nó, cả ở phương diện văn học sử lẫn lí luận, lại có phần muộn mằn lẻ tẻ, mặc dù có hàng nghìn tác phẩm được ra đời. Cho đến nay mới chỉ có “Tuyển tập trường ca” (NXB Quân đội nhân dân năm 1997) là cung cấp được cho độc giả một cái nhìn tập trung về văn bản thể loại này. Như vậy số lượng trường ca được chú ý ở đây còn ít, lại chủ yếu là các trường ca sáng tác trong khoảng 30 năm, tính từ Bài thơ Hắc Hải (1955) của Nguyễn Đình Thi đến Gọi nhau qua vách núi (1987) của Thi Hoàng. “Vùng trường ca” đến nay vẫn còn nhiều chỗ trống, cần có người tâm huyết lục khảo lại, chọn tuyển công phu hơn, nhất là thể hiện được cái nhìn khái quát, công bằng hơn nữa về diễn tiến của thể loại này, để có chỗ đứng như các thể loại khác

     Nền văn học của Việt Nam chúng ta luôn luôn phát triển, song hành cùng với sự phát triển của ngôn ngữ. Thế kỷ XXI này chúng ta được chứng kiến sự bùng nổ về văn học trong đó có thơ ca. Từ thời Trần (Trần Thánh Tông) đã xuất hiện những tao đàn thi ca, đó chính là những tổ chức hoạt động như các CLB thơ ngày nay. Các CLB được thành lập mọc lên như nấm từ thành phố tới nông thôn… Đã có làng được HNV Việt Nam đặt tên là “Làng thơ”, đó là làng Chùa, xã Công Sơn, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, và có không ít những người thơ trở thành hội viên của các hội VHNT, HNV…

      Tô Phạm Phú Xuyên cũng là một người thơ như mọi người khác mà tôi đã gặp, anh đã viết hàng nghìn bài thơ bằng nhiều thể loại, được mọi người mến đọc. Tôi rất may mắn được cầm trên tay tập bản thảo trường ca “Ngược dòng thời gian” của anh. Một điều bất ngờ với tôi là tác giả Tô Phạm Phú Xuyên lại là một giảng viên trường cao đẳng Công nghiệp in Hà Nội, Đi vào lĩnh vực VHNT đã là trái nghành trái nghề, cái nghề của anh thật khô khan không hề liên quan với câu chữ. Chắc anh phải có cái nghiệp trướng về văn chương, và rất đam mê, yêu lịch sử của Việt Nam như máu thịt mới làm được. Hơn nữa viết thơ dã sử lại càng khó, bởi nó mang tính chính xác, không thể nói đến chuyện sai. Nếu chỉ dừng lại ở mảng thơ không thôi thì chỉ là chuyện bình thường, nhưng đây lại là một trường ca viết về lịch sử các triều đại Việt Nam, phải là một người tâm huyết lắm mới có một sự nghiên cứu tìm tòi rất công phu như vậy. Anh viết bằng thể thơ lục bát với độ dài trên 2.000 câu, ngang ngửa với Truyện Kiều của Nguyễn Du, và Thúy Lan truyện thơ của Lê Hữu Bình. Trường ca, anh viết ngược dòng lịch sử từ thuở hồng hoang An Dương Vương dựng nước và giữ nước, cho tới thế hệ Hồ Chí Minh mà không hề thiếu một nhân vật quan trọng nào, lại còn rất chính xác, đọc tác phẩm này chắc các nhà viết sử và những người nghiên cứu về lịch sử phải mát lòng mát dạ lắm, bởi họ đã thêm được một người như đồng nghiệp đi theo con đường của mình đã chọn. Khi viết về lịch sử Việt Nam lại liên quan rất mật thiết tới lịch sử của Trung Quốc nhưng tác giả Tô Phạm Phú Xuyên cũng không quên một chi tiết một triều đại nào, một nhân vật nào. Chứng tỏ tác giả rất dày công nghiên cứu, và đam mê sử học mới lắm chắc về lịch sử Trung Quốc. Trong các pho sử học của chúng ta không thiếu, các tài liệu rất chính xác và đầy đủ, nhưng thật khó nhớ, cho nên ta thấy các trường học phổ thông, các thày cô rất vất vả để các em học sinh nhớ được. Nếu có thể các thầy cô trong trường phổ thông có được tác phẩm “Trường ca” này khi giảng bài chắc chắn các em học sinh dễ thuộc bài hơn. Rõ ràng tác giả là một người rất có tâm với xã hội. Để làm được điều này Tô Phạm Phú Xuyên đã chọn thể thơ lục bát, một thể thơ dễ nhớ, dễ thuộc, để truyền đạt được những tư liệu quý giá về sử học tới mọi người dễ hơn. Có thể nói “Trường ca” của Tô Phạm Phú Xuyên là một cẩm lang ngắn gọn dễ thuộc dễ hiểu, để tra cứu về lịch sử Việt Nam. Thí dụ ta muốn biết về triều Ngô, ta chỉ cần tra mục lục “Ngô Quyền phá quân Nam Hán” trang 46 là ra:

                    Đường Lâm mảnh đất địa linh

               Sinh ra hai vị anh minh một thời

      Phùng hưng vua dũng tuyệt vời

Ngô Quyền vua giỏi sáng ngời đến nay

       ……………………………….

………………………………………

      Sáu năm bao nỗi đoạn trường

Chưa tròn mộng ước mà thương cho đời.

     Tất cả chỉ 28 câu lục bát rất dễ thuộc dễ hiểu dễ nhớ ta đã tóm tắt được triều Ngô như thế nào. Và cứ như thế tất cả các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… Ta soi rất nhanh và dễ dàng            

       Đây là một sự lao động nghệ thuật rất công phu, và tận tụy, chứ không phải đơn thuần là sáng tác. Nếu chỉ đọc tác phẩm “Trường ca” mà chưa hiểu thân thế sự nghiệp của tác giả, thì có lẽ ai cũng nghĩ anh là một nhà nghiên cứu về sử học. Với trên 2.000 câu lục bát rất mượt mà, ít lỗi hiệp vần, thất vận, và luật. Chúng ta thật đáng khâm phục tài năng, kiến thức rộng mở, và trân trọng sự lao động nghệ thuật của Tô Phạm Phú Xuyên. Sách được  NXB - HNV VN cấp giấy phép. Xin Mời các bạn đón đọc

 

                                              Ngày 20.01.2018

                                                 Nghiêm Thản

                                                  


 


 


MỤC LỤC

 

MÊNH MANG SUỐI MỠ............................................... 5

MỘT TRANG NHẬT KÝ............................................... 6

VÀO CHÙA.................................................................... 8

TÌM NHAU..................................................................... 8

EM ƠI ANH ĐỢI............................................................ 9

ĐIỀU ANH THÍCH....................................................... 10

CHUYỆN KHÔNG NGỜ.............................................. 12

CỐ QUÊN..................................................................... 14

MỜI TRẦU................................................................... 16

RÉT NÀNG BÂN.......................................................... 16

TÌNH YÊU QUAN HỌ................................................. 17

ANH SẼ VỀ.................................................................. 18

TÓC EM........................................................................ 19

XEM ẢNH.................................................................... 19

VÔ ĐỀ.......................................................................... 20

ĐỢI............................................................................... 20

DƯỚI SÂN TRƯỜNG.................................................. 21

BỜ MÃI SONG ĐÔI..................................................... 22

ANH CHƯA THỂ VỀ................................................... 24

NHỚ MÀU ÁO ẤY....................................................... 25

TỰ HỎI......................................................................... 26

ĐẾN VỚI TÌNH YÊU................................................... 27

TƯƠNG TƯ.................................................................. 28

THẤT NGHIỆP............................................................. 30

LỤY.............................................................................. 31

THƯƠNG EM............................................................... 31

VIẾT NGÀY 23 TẾT.................................................... 32

MỖI NGƯỜI................................................................. 34

CÓ NỖI BUỒN RIỀNG................................................ 34

ĐIỀU ANH ƯỚC.......................................................... 36

NHỚ............................................................................. 37

GẶP LẠI NHAU........................................................... 37

ĐẮNG........................................................................... 38

BUỒN MÙA COVID.................................................... 39

GIẢI MÃ TÌNH YÊU.................................................... 40

THỊ TRẤN ĐÔI............................................................ 41

CHO ANH CHIA SẺ..................................................... 42

NGÀY CÁ THÁNG TƯ................................................ 44

BÊN BỜ NAM NGẠN.................................................. 46

ĐỢI NGÀY TAN DỊCH................................................ 47

GẶP EM........................................................................ 47

KHOẢNG CÁCH.......................................................... 48

XUÂN CHIỀU.............................................................. 50

ĐẤT NƯỚC MÌNH THỜI COVID................................ 52

SỢ DỊCH LÀ CHỐNG DỊCH........................................ 54

THU THỜI GIÃN CÁCH.............................................. 55

HAI NGƯỜI CHIẾN SĨ................................................. 56

THƯƠNG NGƯỜI CHIẾN SĨ CÔNG AN..................... 58

NỖI LÒNG NGƯỜI CHIẾN SĨ..................................... 60

CHUYỆN LÀM CHUYỆN ĂN..................................... 61

LỤC BÁT BÂY GIỜ..................................................... 62

NHẤT NÔNG NHÌ SĨ................................................... 63

XA QUÊ....................................................................... 64

THÔI ĐÀNH................................................................. 65

MỚI.............................................................................. 66

NHÀN NHẠT............................................................... 68

PHỐ NƠI PHONG TỎA................................................ 70

THƯƠNG MÌNH.......................................................... 72

SỰ SỐNG ĐƯỢC HỒI SINH TRONG THƠ THÚY QUYÊN QUA THI PHẨM “THƠ VIẾT CHO MÌNH”    73

 “GIỌT ĐĂNG” LÀ NHỮNG TÂM TƯ TÌNH CẢM NHƯ NHỮNG TRANG NHẬT KÝ CỦA NHÀ THƠ VIỆT HỒNG........................................................................... 83

GHI Ở BÃI GIỮA SÔNG HỒNG.................................. 93

PHẬN ĐÀN BÀ.......................................................... 100

TƯỢNG GÓA HAY NỖI CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ QUA THI PHẨM “VÔ TRI” CỦA ĐỖ CHIẾN THẮNG...................................................................... 107

 “CHỢ QUÊ” HAY TẤM LÒNG NGƯỜI QUÊ CỦA ĐÀO THANH CƯỜM: 114

BÀN VỀ TÍNH “ƯỚC LỆ” TRONG THƠ................... 122

MỘT GÓC NHÌN TỪ NGÔN NGỮ TRONG NGHỆ THUẬT VIẾT THƠ       129

BÀN VỀ SỰ “CÁCH TÂN” TRONG THƠ LỤC BÁT 145

MỘT CẨM LANG TRONG KHO TÀNG LỊCH SỬ
VIỆT NAM
................................................................. 153

 

 

 

 


VIẾT CHO THU

Thơ và lời bình

nghiêm thản

 

NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

65 Nguyễn Du - Hà Nội

Tel & Fax: 024.38222135

E-mail: nxbhoinhavan@gmail.com

http://sachvan.vn

Chi nhánh miền Nam

371-16 Hai Bà Trưng, Q.3, Tp.HCM

Tel & Fax: 028.38297915

Email: nxbhnv.saigon@gmail.com

Chi nhánh miền Trung và Tây Nguyên

277 - Trần Hưng Đạo, Tp. Đà Nẵng

Tel: 0236.3849516

Email: nxbhnv.mientrungtaynguyen@gmail.com

 

Chịu trách nhiệm xuất bản và bản thảo:

Giám đốc - Tổng biên tập

NGUYỄN QUANG THIỀU

Phó giám đốc - Phó tổng biên tập

đào bá đoàn

 

Biên tập:

NGUYỄN VĂN SƠN

Trình bày:

nghiêm thản

Thiết kế bìa:

hồng ngân

Sửa bản in:

tác giả

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ISBN: 978-604-368-722-4

 


In 500 cuốn, khổ 13,5 x 20,5 cm, tại Công ty Cổ phần KH và CN Hoàng Quốc Việt. Địa chỉ: 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.

Giấy đăng ký xuất bản số: 2318 - 2022/CXBIPH/13-54/HVN.

Số quyết định xuất bản của GĐ: 809/QĐ-NXBHNV ngày 08/07/2022.

In xong và nộp lưu chiểu: Quý III năm 2022.

 

Bìa 2*

NGHIÊM THẢN

*Sinh trú quán: 12 Ngõ 8

Đường Lê Quang Đạo,

Phú Đô, Nam Từ Liêm, Hà Nội

*Hội Viên Chi hội Thơ Công nhân

Hội nhà văn Việt Nam

*Hội Viên clb Văn Chương,

Hội nhà văn Việt nam.

*Hội viên clb Văn học Tháp Bút HN

*ĐT: 0979 220 493

*Email: Trove1971@gmail.com

*http//www.nghiemthan.nghesi.vn

Bìa 3

*ĐÃ XUẤT BẢN

 

- TRỞ VỀ (thơ)

NXB Hội nhà Văn 2010

- HÀ NỘI VÀO ĐÔNG  (thơ)

NXB Hội nhà văn 2012

- THƠ VÀ LỜI BÌNH

NXB Hội nhà văn 2015

- TRĂNG CUỐI MÙA (thơ)

NXB Hội nhà văn 2015

- THƯ TỪ BIỂN ĐẢO

(Thơ và lời bình)

NXB Hội nhà văn 2019

- NƠI GÓC KHUẤT (thơ)

NXB Hội nhà văn 2020

- VIẾT CHO THU

(Thơ & lời bình)

NXB Hội nhà văn 2022

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét